Nhà văn
Phạm Đình Trọng
http://bauxitevietnam.info/3276/an-may-di-vang/
Sáng chủ nhật, tôi vừa mở
máy vi tính mới viết được mấy dòng thì có chuông gọi cửa làm đứt mạch suy nghĩ.
Xuống cầu thang ra mở cửa, thấy ông hàng xóm là đảng viên cùng sinh hoạt tổ đảng
với tôi mà ít ngày trước tôi đã phải mất một buổi tối họp kiểm điểm ông về cái
tật lãng nhách, rất không đáng có ở một đảng viên của đảng cách mạng, đảng chính
trị là tật tối ngày nhậu nhẹt bét nhè, bê tha, đã kéo dài suốt nhiều năm của
ông. Nay một người như thế đến bảo tôi nộp cho ông bản thu hoạch học tập đạo đức
Hồ Chí Minh!
Cuộc học tập tư tưởng, làm
theo đạo đức Hồ Chí Minh tiến hành rầm rộ suốt mấy năm nay trên cả nước đã bộc
lộ rất rõ tính hình thức, phô trương, màu mè, tốn kém, đầy sự áp đặt duy ý chí,
đầy tính tôn giáo tụng niệm, thể hiện cung cách làm công tác tư tưởng theo lối
mòn xưa cũ, đã quá lạc hậu trong thời công nghệ thông tin đã đi vào từng gia
đình, đã đến với từng cá nhân, trong thời kinh tế thị trường quyết liệt, nghiệt
ngã, cuộc sống đã trở về với những giá trị thiết thực, con người phải đối mặt
với một thực tế phũ phàng của một xã hội tiêu dùng, xã hội bị chi phối, phân hóa
quyết liệt bởi vật chất! Nhìn ông đảng viên nát rượu đến đôn đốc tôi nộp bản thu
hoạch học tập đạo đức Hồ Chí Minh, tôi lại nghĩ đến những ông quan tham nhũng có
mặt ở khắp nơi, ở mọi cấp, những người đang đôn đáo phát động và thành kính học
tập đạo đức Hồ Chí Minh, những diễn viên đang diễn vở kịch học tập đạo đức Hồ
Chí Minh. Không, tôi không thể tham gia vở diễn ấy. Chỉ chứng kiến vở diễn tôi
đã bứt rứt không yên làm sao tôi có thể tham gia cùng họ được! Tôi nói với ông
đảng viên nát rượu: Nhờ anh báo cáo rằng tôi không làm bản thu hoạch cũng như
tôi đã không đi nghe buổi lên lớp về đạo đức Hồ Chí Minh do Đảng ủy phường 15
quận Tân Bình tổ chức.
1.
Mỗi người dù vĩ đại đến đâu cũng chỉ có một giai đoạn lịch sử nhất định
Tôi rất kính
trọng nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh. Tôi đánh giá cao vai trò lịch sử của Hồ Chí
Minh cũng như tôi đánh giá cao tư tưởng nhân dân, đạo đức yêu nước, giản dị,
khiêm nhường, gần dân của Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh gắn liền với phong trào
giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, gắn liền với cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại giải phóng dân tộc, thời đại
giành độc lập dân tộc. Thời đại cách mạng giải phóng dân tộc đã qua. Việt Nam
cũng như cả thế giới thứ ba vừa giành được độc lập đã bước vào thời đại mới,
thời đại phát triển kinh tế, chăm lo cuộc sống riêng tư của mỗi người, mỗi nhà,
nỗ lực phấn đấu vì sự phồn vinh, giàu mạnh của mỗi dân tộc.
Thời đấu tranh cách mạng
giành độc lập, một dân tộc nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu phải chiến đấu với kẻ thù
xâm lược giàu có, hùng mạnh, có vũ khí hiện đại thì vũ khí vô cùng quan trọng
tạo nên sức mạnh to lớn cho dân tộc nhỏ bé là ý chí, tinh thần quả cảm, là khối
đoàn kết dân tộc muôn người như một xả thân vì nghĩa lớn độc lập dân tộc.
Trong cuộc chiến đấu giành
độc lập, cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân phải gác sang một bên, không được
quan tâm nhìn nhận. Chỉ có sự sống còn của cả dân tộc mới là nỗi đau đáu của mọi
con tim. Cuộc sống cá nhân phải hi sinh. Ý chí của cá nhân cũng là ý chí của cả
dân tộc. Để có mặt được trong cuộc sống đó, con người phải sống khác bình
thường, sống bằng lí trí, niềm tin. Đó là không gian linh thiêng để những con
người huyền thoại xuất hiện. Hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn con người Việt Nam
huyền thoại có tên và không tên đã xuất hiện trong cuộc chiến tranh huyền thoại
giải phóng dân tộc suốt ba mươi năm qua. Hồ Chi Minh là con người huyền thoại
lớn nhất trong những con người Việt Nam huyền thoại đó. Nhưng con người huyền
thoại phải đặt trong không gian huyền thoại. Hay nói cách khác, chỉ có không
gian huyền thoại mới tạo ra con người huyền thoại.
Trở về cuộc sống đời
thường, trở về với cuộc sống cá nhân riêng tư, với lo toan cơm ăn, áo mặc, sinh
con đẻ cái, với đố kị, bon chen, không gian huyền thoại không còn nữa. Không
gian huyền thoại càng không thể có trong cuộc sống có quá nhiều chụp giựt, lừa
lọc, bạo lực, kẻ mạnh quyền mạnh thế ức hiếp người thân cô thế yếu. Đưa con
người huyền thoại Hồ Chí Minh vào cuộc sống chụp giựt, lừa đảo, hỗn loạn, nhâng
nháo ấy là sự lạc lõng thảm hại!
Một con người bằng xương
bằng thịt, một con người thực sự là người dù vĩ đại, kiệt xuất, cao đẹp đến đâu
cũng vẫn có những hạn chế, những khiếm khuyết, có cả những mềm yếu, ngã lòng.
Lại càng không thể tránh được những ham muốn, đòi hỏi bình thường của con người
bình thường. Cuộc chiến đấu cam go của dân tộc nhỏ bé chống lại đội quân xâm
lược khổng lồ, dân tộc ấy cần có ý chí, tinh thần quả cảm, lại càng cần có lãnh
tụ thiêng liêng tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Vị lãnh tụ ấy không
tự nhiên mà có. Chính khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân đã tô vẽ và tạo
dựng lên vị lãnh tụ thiêng liêng ấy. Huy động lịch sử, văn hóa, nhân dân còn huy
động cả thần linh để thần thánh hóa lãnh tụ của cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm. Chấm mỡ viết chữ lên lá cây để kiến gặm theo vết mỡ tạo thành hàng chữ “Lê
Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Lá cây mang hàng chữ theo suối nhỏ chảy ra
sông lớn, phát tán rộng rãi khắp trong nhân dân. Hàng chữ trên lá cây trở thành
thần bí thiêng liêng, trở thành lời thần linh mách bảo người dân rằng Lê Lợi,
Nguyễn Trãi mang mệnh Trời dựng cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước. Vị hào trưởng
nông dân nơi góc rừng heo hút Lam Sơn được thần thánh hóa đã trở thành trung tâm
tập hợp sức mạnh đoàn kết dân tộc đánh đuổi quân Minh giành độc lập.
Ngay sau ngày 2.9.1945,
hầu hết người dân Việt Nam vẫn ngơ ngác chưa biết Hồ Chí Minh là ai! Thù trong
đe dọa, giặc ngoài lăm le, nền độc lập non trẻ đang ngàn cân treo trên sợi tóc.
Tình thế ấy đòi hỏi phải có một lãnh tụ đủ uy tín tập hợp sức mạnh nhân dân bảo
vệ độc lập. Hồ Chí Minh liền tự tay viết tập sách Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ Tịch và kí tên người viết là Trần Dân Tiên. Những mẩu
chuyện kể tưởng như chân thực nhưng vẫn mang không khí huyền thoại, mang cảm
hứng anh hùng ca. Trong tập sách đó cũng chính Hồ Chí Minh tự nhận là Cha già
Dân tộc! Từ đó những bài hát Lãnh tụ ca của các nhạc sĩ, những tranh, tượng Cha
già Dân tộc Hồ Chí Minh của các họa sĩ, nhà điêu khắc, những chuyện kể về Bác Hồ
kính yêu của các nhà văn, các nhà cách mạng, các nhà văn hóa, trí thức, của cả
đông đảo quần chúng công nông binh đều với cảm hứng anh hùng ca, với tình cảm
thành kính thiêng liêng càng thần thánh hóa Hồ Chí Minh đậm đặc hơn. Những việc
làm đó là rất cần thiết khi đang phải chiến đấu gay go với kẻ thù xâm lược. Nếu
không có tình cảm thiêng liêng dành cho Hồ Chí Minh thì không có chín phút lẫm
liệt đi vào lịch sử của Nguyễn Văn Trỗi. Đứng trên pháp trường, trước họng súng
hành quyết, Nguyễn Văn Trỗi giật tấm vải đen bịt mắt, ưỡn ngực hô ba lần Hồ Chí
Minh muôn năm trước khi bị loạt đạn xé nát ngực!
Trong đấu tranh cách mạng
và trong những cuộc chiến tranh không cân sức vừa qua, đồng bào chiến sĩ ta luôn
phải đối mặt với cái chết và mỗi người luôn sẵn sàng nhận lấy cái chết vì sự
sống còn của dân tộc, của Tổ quốc. Năm 1944, chiến sĩ du kích Ba Tơ hô:
Hi sinh vì Tổ quốc. Năm 1946, chiến sĩ cảm tử Thủ đô ôm bom ba càng lao
vào xe tăng giặc Pháp hô: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Những tiếng hô ấy âm vang trong suốt ba mươi năm chiến tranh giữ nước. Trong sự
xả thân cứu nước đó, yếu tố tinh thần là quyết định. Truyền thống dân tộc, không
gian huyền thoại của cuộc kháng chiến, gương anh hùng dũng sĩ và nhất là tình
cảm thiêng liêng đậm màu tôn giáo giành cho lãnh tụ thần thánh Hồ Chí Minh làm
nên tinh thần đó.
Trở về cuộc sống làm ăn
đời thường, hàng ngày hàng giờ không còn đối mặt với cái chết nữa mà phải đối
mặt với những bài toán kinh tế. Đời sống riêng tư mỗi người, đời sống kinh tế
gia đình, đời sống kinh tế quốc gia đều đặt ra những bài toán cụ thể, thiết thực
của đời thường. Trước những bài toán ấy, yếu tố tinh thần không còn quyết định
nữa mà quyết định là yếu tố thực tế, yếu tố tỉnh táo, trí tuệ, yếu tố nắm bắt
đầy đủ, kịp thời thông tin. Chỉ thu hẹp trong
cái tình cảm hai nước cùng là cộng sản phải đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội,
chỉ biết có tinh thần quốc tế vô sản, không có thực tế của đời sống kinh tế khắc
nghiệt, thiếu sự tỉnh táo lạnh lùng của người làm kinh tế, lại càng thiếu trí
tuệ của khoa học công nghệ, chúng ta đã kí hợp đồng với Trung Quốc hợp tác khai
thác bô-xít ở Tây Nguyên, đẩy đất nước ta vào những thảm họa khủng khiếp và bi
thảm. Làm kinh tế chỉ bằng tinh thần và tình cảm nguy hại như vậy đó! Học
tập đạo đức Hồ Chí Minh hoàn toàn chỉ là tinh thần và tình cảm!
Hồ Chí Minh có những phẩm
chất đáng quí của thời nghèo khổ thắt lưng buộc bụng đánh giặc. Chiếc chiếu cói
trải giường ngủ của Hồ Chí Minh trên nhà sàn đã cũ rách nhưng Hồ Chí Minh không
cho thay. Nó mới rách một chỗ mà bỏ cả chiếc chiếu thì phí quá! Nói vậy và Hồ
Chí Minh lấy kim chỉ tự khâu chỗ rách lại! Nhưng ngày nay ngân sách nhà nước vừa
phải đổ ra hàng ngàn tỉ đồng để kích cầu, kích thích tiêu dùng để phát triển sản
xuất. Cái chiếu cói cũng như mọi hàng hóa khác đều có giới hạn sử dụng. Giới hạn
sử dụng ấy được ngôn ngữ quốc tế hóa là “đát”. Hết đát thì phải bỏ, thay cái
khác. Hàng hóa có tiêu thụ được, sản xuất mới phát triển. Một thí dụ để thấy một
phẩm chất rất đáng quí của Hồ Chí Minh ngày nào nay cũng không thể “học tập”
được nữa!
Nhân vật lịch sử dù vĩ đại
đến đâu cũng đều có đát. Hết đát, hết thời đại của mình thì lui về quá vãng, lui
về thời của mình để thời đại khác xuất hiện, để nhân vật lịch sử khác thay thế.
Ồn ào lôi nhân vật lịch sử từ quá vãng ra hiện tại là việc làm trái tự nhiên,
trái qui luật, là phủ nhận hiện tại. Với công tác tư tưởng, đó là sự yếu kém,
không biết làm việc, đành lôi bài bản cũ ra xào xáo lại!
2.
Sự chối bỏ tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư duy phương Tây coi
trọng cái lí. Những gì của tự nhiên không phù hợp với con người đều là bất hợp
lí, đều cần cải tạo. Phương Tây đặt con người đối mặt với tự nhiên, con người
luôn lăm le cải tạo tự nhiên. Tư duy phương Đông hướng vào cái Tâm. “Chữ Tâm
kia mới bằng ba chữ Tài” (Nguyễn Du). Coi tự nhiên cũng như con người, đều
là chủ thể thế giới, triết lí phương Đông không đẩy con người đối lập với tự
nhiên mà đòi hỏi con người sống hòa thuận với tự nhiên. Ngôi nhà sàn nhỏ bé của
Hồ Chí Minh núp trong cây xanh, soi bóng xuống hồ cá trong rừng cây xao xác gió
ở Phủ Chủ tịch giữa Hà Nội là cách sống hòa vào thiên nhiên, là tư tưởng triết
lí phương Đông của Hồ Chí Minh. Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm trồng người. Hồ Chí Minh nhắc lại lời của nhà hiền triết phương Đông như vậy
và đi đâu thăm hỏi đồng bào chiến sĩ Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở việc trồng cây
không phải chỉ vì lợi ích mười năm sau được hái quả, thu hoạch gỗ mà còn vì cây
xanh là thiên nhiên, là màu xanh vĩnh hằng của sự sống.
Tư tưởng lớn, xuyên suốt,
nhất quán trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh là tư tưởng Nhân dân.
Với tư tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh dựng lên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nhà nước với những tiêu chí thiết thực, đáp ứng nỗi khát khao Dân chủ cháy bỏng
của Nhân dân. Với tư tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh đã xây dựng lên bản Hiến pháp
năm 1946, bản Hiến pháp đưa Nhân dân lên chủ thể xã hội. Với tư tưởng Nhân dân,
Hồ Chí Minh đã đổi tên đảng Cộng sản Đông Dương huyễn hoặc mang những tham vọng
viển vông thành đảng Lao động Việt Nam bình dị, gần gũi với Dân. Khi buộc phải
tiến hành chiến tranh bảo vệ nền độc lập thì cuộc chiến tranh do Hồ Chí Minh
phát động cũng là cuộc chiến tranh Nhân dân, dựa vào Nhân dân tiến hành chiến
tranh giữ nước.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh bình dị vậy thôi. Những người tự nhận là học trò gần gũi của Hồ Chí Minh,
luôn ra rả nói học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhưng hoàn toàn làm trái với
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, hoàn toàn chối bỏ, phủ nhận tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Với triết lí phương Đông, con người sống chết đều hòa vào thiên nhiên,
Hồ Chí Minh viết rõ ràng trong di chúc đưa tro xác Hồ Chí Minh về với đất đai.
Với tư tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh không chấp nhận hoang phí tiền bạc của Dân.
Khi sống, Hồ Chí Minh cần kiệm, giản dị, sinh hoạt như người dân thường. Cả đời
làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh chỉ có hai kiểu trang phục, bộ quần áo nâu nông
dân và bộ quần áo ka ki cán bộ như mọi cán bộ bình thường. Cơm dưa cà đạm bạc.
Chiếc ô tô của Chủ tịch nước chỉ là ô tô thông thường đã chạy hơn mười năm Hồ
Chí Minh vẫn không cho đổi xe mới… Khi chết, Hồ Chí Minh chỉ mong muốn tro xác
về với đất đai cả ba miền đất nước. Nơi Hồ Chí Minh về với đất chỉ cần mái chòi
đơn sơ trên đồi cây mang màu xanh bất tận của thiên nhiên đất nước. Hồ Chí Minh
ngăn cấm không cho sử dụng tốn kém tiền bạc của Dân cho cái chết của Hồ Chí
Minh. Mong muốn giản dị về với đất đai của Hồ Chí Minh đã không được thực hiện,
những người ra rả học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn đổ không thương xót
số tiền khổng lồ của Dân để xây lăng mộ, duy trì bộ máy đồ sộ, cả một Bộ Tư lệnh
lăng để bảo quản thi hài, quản lý lăng mộ Hồ Chí Minh! Cho đến nay, cả đến Quốc
hội của Dân cũng không được biết số tiền khổng lồ đó là bao nhiêu!
Điều bất nhẫn với Dân và
xúc phạm đạo đức Hồ Chí Minh hơn nữa là nhà
nước đổ số tiền khổng lồ ra xây dựng và duy trì lăng Hồ Chí Minh khi hơn mười
triệu Dân miền Bắc đang đói lay đói lắt, trẻ thơ không đủ cơm ăn, người bệnh
không có viên thuốc uống, người nông dân thu hoạch lúa, đóng thuế rồi chỉ còn
bữa cháo bữa rau cầm hơi!
Trong đoàn nhà văn Việt
Nam sang Ấn Độ tham dự một hoạt động văn chương quốc tế ở thành phố Kolkata, lúc
vui chuyện với các bạn Ấn Độ, tôi nhắc đến việc Ấn Độ đã trở thành cường quốc
nguyên tử, tưởng các bạn Ấn Độ sẽ tự hào lắm. Nhưng tôi thấy mọi người đều im
lặng, vẻ mặt tư lự rồi nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Chàm đồng thời là Chủ
tịch Ủy ban Ấn Độ – Việt Nam (Indo – Vietnam Solidarity Committee), ông Geetesh
Sharma nói: Để có nguyên tử, cho đến hôm nay hơn năm mươi phần trăm dân số Ấn Độ
còn phải sống trong nghèo khổ và những khu nhà ổ chuột cứ lan rộng khắp đất nước
Ấn Độ! Nghe người bạn thân thiết của Việt Nam nói vậy tôi lại thầm so sánh: Hơn
năm mươi phần trăm dân số sống trong nghèo khổ để Ấn Độ có nguyên tử vẫn còn hơn
là hơn mười triệu dân Việt Nam phải sống trong nghèo khổ để có lăng mộ Hồ Chí
Minh! Đó là điều trái với đạo đức Hồ Chí Minh,
là sự phỉ báng tư tưởng Nhân dân của Hồ Chí Minh!
Làm trái tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh không phải là cá biệt mà là việc làm có tính toán, có hệ thống từ
nhỏ đến lớn, từ chi tiết đến đại thể, từ sự việc cụ thể đến vấn đề khái quát, có
sự thống nhất của nhiều thế hệ lãnh đạo kế tiếp sau Hồ Chí Minh.
Nhà nước Dân chủ là khát
vọng của mọi thân phận người Dân nước Việt, là xu thế của thời đại. Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã mở ra thời đại Dân chủ hóa cho cả thế giới thứ ba. Sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi
bảo vệ thành công nền Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kích hoạt
cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trở thành dòng thác cách
mạng. Vì thế tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sự ngưỡng vọng của thế giới,
là niềm tự hào to lớn của mọi người dân Việt Nam. Cho đến nay tiến trình dân chủ
hóa vẫn đang diễn ra trên toàn thế giới. Ở nước ta, tiến trình dân chủ hóa vẫn
còn ở chặng khởi đầu, còn nhiều dò dẫm và trở ngại. Dân chủ vẫn đang là nỗi thèm
khát và là nguồn cổ vũ mạnh mẽ người dân đi tới, vượt qua mọi trở ngại, giành
lấy một nền dân chủ thực sự và đầy đủ. Thế mà tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
mang tư tưởng Dân chủ của Hồ Chí Minh, mang khát vọng Dân chủ của cả dân tộc
Việt Nam đã bị những người luôn cao giọng học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
loại bỏ thẳng thừng để thay thế bẳng tên gọi xa lạ, ngoại lai: Nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam!
Trong khái niệm, trong ý
thức, trong tình cảm mọi người dân Việt Nam, tiếng gọi Việt Nam bao giờ cũng
phải đưa lên trên cùng. Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! Ôi nước Việt yêu
dấu ngàn năm! Tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thân thiết như máu
thịt chính là do đáp ứng tình cảm đó. Nay một ngôn từ xa lạ, xã hội chủ nghĩa,
ngôn từ chỉ gợi lên những kí ức đau buồn của cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản,
của những cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt triền miên, trở thành tên nước Việt
và tên gọi Việt Nam thân yêu như tên người Mẹ hiền, như tên người thương đã bị
chìm khuất, bị đè bẹp, bị đẩy xuống cuối cùng trong chuỗi ngôn từ lạnh lùng,
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Thể chế Dân chủ cần thiết
cho người dân Việt Nam như khí trời cần thiết cho sự sống. Thể chế ấy bị vất bỏ
để thay thế bằng khái niệm mơ hồ, viển vông, không có thật, khái niệm chỉ có
trong ảo thuyết. Đó là sự chối bỏ phũ phàng tư
tưởng Hồ Chí Minh!
Chính đảng cách mạng Hồ
Chí Minh dựng lên là sự tập hợp từ những nhóm cộng sản Việt Nam hình thành trong
thời kì lây lan của phong trào cộng sản thế giới. Vì thế chính đảng ấy ban đầu
mang tên cộng sản, mang dấu ấn hoàn cảnh lịch sử ra đời. Nhưng đến năm 1951, khi
cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh, cách mạng đã giành được quyền chủ động và thế
phản công trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đang tiến tới ngày giải
phóng đất nước, Hồ Chí Minh liền đổi tên đảng là đảng Lao động Việt Nam. Tuy vẫn
phải giữ liên hệ chặt chẽ với các đảng cộng sản và các nước cộng sản để nhận sự
hỗ trợ cần thiết cho cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng tên đảng Lao động Việt
Nam đã bộc lộ rất rõ tư tưởng Dân tộc, tư tưởng hướng nội của Hồ Chí Minh. Khi
đất nước đã được hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã thoát khỏi thân phận là lực
lượng xung kích phải đứng ở mũi nhọn trong cuộc đối kháng ý thức hệ thế giới là
khi chúng ta càng phải hướng nội, càng phải nêu cao tư tưởng Dân tộc của Hồ Chí
Minh để hòa giải, hòa hợp dân tộc, dồn sức xây dựng lại đất nước sau chiến
tranh. Nhưng thế hệ lãnh đạo kế cận Hồ Chí Minh tự nhận là những học trò gần gũi
nhất của Hồ Chí Minh lại tráo trở với tư tưởng Hồ Chí Minh đã thay tên đảng Lao
động Việt Nam của Hồ Chí Minh bằng tên đảng Cộng sản Việt Nam, một tên gọi đầy
tính băng đảng quốc tế! Phủ nhận tên đảng Lao động Việt Nam mang văn hóa Việt
Nam coi trọng người lao động, mang tâm lí, tính cách con người Việt Nam là phủ
nhận bản sắc Việt Nam để đồng hóa Việt Nam với thế giới cộng sản chỉ nhìn nhận
giai cấp!
Vất bỏ tư tưởng dân tộc,
tư tưởng hướng nội của Hồ Chí Minh, vẫn say sưa quyết liệt với bạo lực chuyên
chính vô sản, vẫn say sưa quyết liệt đối đầu ý thức hệ, lấy giai cấp trấn áp dân
tộc, đưa đất nước đến hai thảm họa: Phá hoại khối đoàn kết dân tộc, tù đày, dằn
mặt với những người con nước Việt ở phía bên kia ý thức hệ, bỏ phí một lực lượng
lao động cao cấp vô cùng quí giá! Phá hoại tan hoang nền kinh tế miền Nam, một
nền kinh tế tư bản cao hơn hẳn kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc!
Vất bỏ tư tưởng dân tộc,
tư tưởng hướng nội của Hồ Chí Minh để hướng ngoại, vươn tới thế giới cộng sản
khi thế giới cộng sản đang khủng hoảng toàn diện, đang thoái trào tan rã, đang
lục đục gầm gừ năm bè bảy mối. Một lần nữa những người lãnh đạo Việt Nam ngây
thơ, không đủ tầm lại đưa dân tộc Việt Nam trở thành vật hi sinh của thế giới
cộng sản. Mâu thuẫn của thế giới cộng sản lại trút xuống đầu nhân dân Việt Nam,
nhân dân Việt Nam lại phải hứng chịu cuộc chiến tranh đẫm máu ở biên giới phía
Bắc kéo dài suốt mười năm, từ 1979 đến 1988. Đó là hậu quả dại dột tráo trở tư
tưởng dân tộc của Hồ Chí Minh.
Hiến pháp năm 1946 do Hồ
Chi Minh soạn thảo được Quốc hội khóa I thông qua ngày 9.11.1946 đã cụ thể hóa
tư tưởng Nhân dân của Hồ Chí Minh. Hiến pháp 1946 đã đưa nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ lên vị trí chủ thể xã hội, trao cho Nhân dân toàn bộ quyền bính
xã hội: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo” (Điều 1, điều đầu tiên Hiến pháp 1946). Hiến pháp 1946 đã cụ
thể hóa quyền lực nhân dân khi ghi rõ: Những điều thay đổi Hiến pháp
khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết
(Điều 70, điều cuối cùng Hiến pháp 1946). Nhưng những Hiến pháp ban hành sau khi
Hồ Chí Minh qua đời, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, đã tước bỏ vị trí làm chủ
của Nhân dân, tước bỏ quyền bính xã hội của Nhân dân, trao quyền làm chủ xã hội
cho đảng Cộng sản, trao toàn bộ quyền bính xã hội cho đảng Cộng sản, một đảng
nắm quyền thống trị xã hội bằng bạo lực chuyên chính vô sản, bằng trấn áp giai
cấp. Điều 4 Hiến pháp 1980 ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam . . . là lực lượng duy
nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội. Điều 4 Hiến pháp 1992 lại ghi: Đảng
Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội! Chỉ một
điều 4 của Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đã tước đoạt toàn bộ quyền
làm chủ xã hội của Nhân dân mà Hiến pháp 1946 của Hồ Chí Minh đã trao cho Nhân
dân. Bao nhiêu thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống, bao nhiêu xương máu đã đổ ra
mới giành và giữ được độc lập. Nhưng nước có
độc lập mà người Dân lại trở về thân phận trước năm 1945 khi đất nước còn nô lệ!
Đó là nỗi cay đắng của Nhân dân khi tư tưởng Nhân dân của Hồ Chí Minh bị phản
bội!
Những tư tưởng đạo đức cơ
bản của Hồ Chí Minh đã bị chối bỏ thì việc rầm rộ học tập tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh có thực tâm?
3.
Cuộc vận động làm điều giả dối
Phải nói thẳng rằng chính
quyền nhà nước hiện nay là chính quyền tham nhũng. Chính quyền tham nhũng tạo ra
luật pháp để tham nhũng. Luật để tham những rõ ràng nhất là luật Đất đai. Luật
Đất đai ở điều 5 ghi: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Điều 7 lại ghi: Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Câu chữ lủng củng và diễn đạt
cầu kì có thể rút gọn lại là: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống
nhất quản lí. Ruộng vườn mồ hôi xương máu của tổ tiên từ ngàn đời để lại bỗng
thành sở hữu toàn dân! Cha chung không ai khóc, sở hữu toàn dân là vô chủ và
quan tham thỏa sức vơ vét! Nhà nước quản lý nên quan chức nhà nước mặc sức cắm
mốc thu hồi đất theo những tính toán vụ lợi của các quan. Thu hồi đất, phân lô
chia chác cho các quan, chia cho vợ, con, họ hàng các quan. Thu hồi đất cho các
dự án để ăn chặn tiền đền bù, ăn chênh lệch giữa giá đất đền bù và giá đất giao
cho các dự án! Càng nhiều dự án thì các quan càng có nhiều tiền và dòng người
dân khiếu kiện vì bị cướp đất, bị ăn chặn tiền đền bù càng nối dài theo năm
tháng. Người nông dân mất đất phải phiêu bạt khắp nơi, từ vị trí làm chủ họ trở
thành người đi làm thuê. Con gái ra thành phố làm tiếp viên cà phê đèn mờ, ra
nước ngoài làm ô sin, làm nô lệ tình dục. Con trai đi bán sức lao động, làm
thuê, làm mướn. Bần cùng và phẫn uất, có người trở thành trộm cướp. Có người già
phải dắt cháu đi ăn xin! Chỉ mới vài ngày gần
đây thôi, một cô bé ra TP HCM thi đại học phải nhịn đói tròn 3 ngày trong thời
gian thi. Đó là trách nhiệm – nặng hơn nữa là tội ác – của ai nếu không là của
những kẻ khề khà giảng giải đạo đức Hồ Chí Minh mà sau lưng lại là vô số “nhóm
lợi ích” ôm hàng túi vàng?
Miệng hô hào chống tham
nhũng nhưng chính quyền tham nhũng thì rất nương nhẹ, dửng dung với quốc nạn
tham nhũng. Chính phủ nước ngoài cho ta vay vốn làm công trình. Công ty nước
ngoài liền hối lộ quan chức ta để trúng thầu thi công công trình đó. Chính quyền
nước ngoài đã đưa người hối lộ ra tòa án nhưng quan chức ta nhận hối lộ thì vẫn
bình yên và chính quyền ta thì dửng dưng nói với nước ngoài: Cứ đưa chứng cứ ra,
chúng tôi sẽ xử lí! Làm như hối lộ và nhận hối lộ chỉ là việc của mấy người nước
ngoài! Bố đứng đầu cơ quan phát hành tiền bạc nhà nước, con liền lập công ti in
tiền cho bố. Bao nhiêu bê bối, lình xình đã phơi bày ra nhưng vẫn được bỏ qua!
Dù chế độ tiền lương đã được cải thiện nhiều nhưng nếu không tham nhũng thì đồng
lương quan chức không thể dư dả đến mức quan chức ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh thì
về vùng xa mua hàng chục hecta đất làm trang trại, về những nơi kì thú như Sóc
Sơn, Ba Vì, Nha Trang, Mũi Né, Đà Lạt mua biệt thự làm chốn đi về nghỉ ngơi. Các
quan tỉnh lẻ thì về Hà Nội, vào TP Hồ Chí Minh mua đất, mua nhà cho con lớn con
nhỏ, mua biệt thự chờ ngày về hưu. Lớp quan chức này đã vớ bẫm về nghỉ, hạ cánh
an toàn, lớp quan chức sau lại cất cánh bay theo đường bay làm giàu, bòn rút
tiền bạc nhà nước, bóp nặn dân của lớp quan chức trước. Tất cả đều an toàn, tất
cả đều vô sự trở thành sự khuyến khích tham nhũng, trở thành sự hấp dẫn của
chiếc ghế quan chức và chiếc ghế quan chức trở thành đắt giá trong thị trường
mua quan bán chức!
Chuyện tham nhũng của bộ
máy nhà nước ta không sao kể xiết. Bộ máy nhà nước tham nhũng ấy lại cao giọng
rao giảng đạo đức Hồ Chí Minh, lại ồn ào rầm rộ học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh thì đó là sự giả dối vô liêm sỉ, một sự giả dối tự nhiên như không, không
còn biết ngượng, thì đó là một màn kịch vụng về, trơ trẽn! Và cuộc vận động học
tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở thành cuộc vận động làm điều giả dối! Đó là
suy đồi thảm hại của đạo đức xã hội!
Bộ máy tham nhũng
làm cho chính quyền suy yếu, nhân dân oán giận, lòng người li tán. Trong tình
thế đó, đưa Hồ Chí Minh ra, đưa những năm tháng đánh giặc hào hùng ra, đưa sự hi
sinh to lớn của đồng bào chiến sĩ ra để ru ngủ nhân dân quên đi những nhức nhối
hiện tại, để chính quyền tham nhũng núp bóng, ăn theo vinh quang của quá khứ mà
tồn tại. Đó là sự ăn mày dĩ vãng!
PĐT
HT
Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Bài này
được đăng lúc 16:43 ngày Thứ Hai, 13/07/2009 trong mục
Bài viết / Ý kiến.
|