Có thể nói " chống người thi hành công vụ” là một tình tiết đặc biệt nhất trong bộ luật hình sư của Việt Nam.
Tình tiết này có thể cấu thành một tội danh độc lập ( tội chống người
thi hành công vụ- điều 257), có thể là một tình tiết tăng nặng định
khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng hình phạt ( khi bị án không
bị truy tố về tội chống người thi hành công vụ). Mặc dù có tính đặc
biệt như vậy nhưng cho tới nay chưa có bất kỳ một văn bản chính thức
nào giải thích khái niệm " công vụ là gì”. Gần đây, một số phóng viên,
nhà báo bị tấn công, người ta có đặt vấn đề : công vụ là gì, nhà báo
đang tác nghiệp có xem là đang thi hành công vụ hay không, người đang
thi thi hành công vụ là những người nào v.v.v. Công
vụ là khái niệm rất rộng và có ý nghĩa quan trọng trong nền hành chính
của Nhà nước. Nói đến công vụ là nói đến các họat động của Nhà nước
mang tính quyền lực với nhiều yếu tố hợp thành như cơ chế công vụ, đội
ngũ cán bộ công chức, các cơ quan Nhà nước v.v.v. Hiện nay trên thế
giới có nhiều quan điểm khác nhau về công vụ. Một số học giả Hoa Kỳ
quan niệm " công vụ là một khái niệm mô tả về các nhân viên viên do
chính phủ tuyển dụng, các công chức được tuyển dụng trên cơ sở thực
tài, được đánh giá định kỳ về kết quả thực thi công tác của mình..”.
Cộng hòa Pháp quan niệm khi nói về công vụ là
chủ yếu nói về " tòan bộ những người được Nhà nuớc tuyển dụng và bổ
nhiệm vào các công sở, kể cả bệnh viện, và được chính thức vào một
trong các ngạch của nền hành chánh công.” Nghiên
cứu một số quan niệm trên, thấy rằng trong một thời gian dài, Việt nam
vẫn quan niệm công vụ là những họat động của công chức mang tính quyền
lực Nhà nuớc. Đơn thuần là mệnh lệnh và phục tùng. Quan điểm này vẫn
kéo dài cho đến ngày nay và in sâu trong nhận thức của đại đa số công
chức Việt nam, mặc dù Nhà nước vẫn hô hào đẩy mạnh dịch vụ hành chính
công, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức có thực tài và đạo đức để
phục vụ nhân dân. Với quan niệm công vụ là quyền lực, đội
ngũ công chức Việt nam tỏ ra hách dịch và cưỡng quyền khi thi hành công
vụ, tiếp xúc và làm việc với dân chúng thì quan liêu, hạch sách. Cách
hành xử như vậy trong một thời gian dài đã gây ra sự phẫn nộ và bức xúc
trong dân chúng. Trạng thái ức chế này đến ngưỡng đã gây ra tình trạng
phản kháng của xã hội mà biểu hiện của nó là hàng lọat vụ chống người
thi hành công vụ đã xảy ra. Hiện tượng này còn có một nguyên nhân nữa
là do hệ thống pháp luật thiếu minh bạch và công bằng. Công lý không
đến được với công chúng dẫn đến tình trạng xem thường những người thực
thi công vụ. Chống
người thi hành công vụ đã trở nên quá phổ biến, theo bộ Công an hàng
năm trên cả nước có hơn 600 vụ chống người thi hành công vụ, xảy ra ở
hầu hết tất cả các tỉnh thành. Tình trạng báo động trên đã buộc bộ Công
an phải chủ trì nhiều cuộc họp với địa phương để tìm ra giải pháp hạn
chế. Mặc dù vậy thì tình trạng này vẫn không giảm mà còn có chiều hướng
gia tăng. Điểm
lại một số vụ chống người thi hành công vụ nổi bật như vụ ở An khê- gia
lai, vụ Giáo dân Cồn dầu và nhiều vụ khác đều thấy rằng nguyên nhân chủ
yếu xuất phát từ cách hành xử " lộng quyền” của những người thi hành
công vụ. Có ý kiến cho rằng nguyên nhân là do người dân "ý thức kém và
coi thường pháp luật”. Ngay cả nguyên nhân này cũng buộc Nhà nuớc phải
" suy nghĩ” : tại sao dân mình lại xem thường pháp luật. Người
thi hành công vụ phải hiểu rằng mình đang thực thi nghĩa vụ công bộc mà
nhân dân giao cho. Chừng nào vẫn còn tệ " quan liêu, hách dịch và cưỡng
quyền” thì chừng đó vẫn còn người dân chống đối và sự phản kháng của xã
hội càng lúc càng mạnh hơn.
|