Khi đặt tay lên bàn phím để gõ những dòng chữ này, người viết không cố
ý đào sâu thêm thù hận, mà chỉ muốn nói lên một sự thật đã được che đậy
để thay vào những giả dối bởi một chính quyền chỉ biết có quyền lợi cá
nhân mà quên đi quyền lợi chung của quốc gia và dân tộc.
Trong suốt chiều dài lịch sử kiêu hùng của dân tộc VN từ ngàn xưa cho
đến bây giờ, chỉ có triều đại của ĐCSVN hôm nay là đen tối, là đê hèn
và nhục nhã nhất bởi vì, nó đã làm cho tinh thần đoàn kết, tinh thần
yêu nước, ý chí chống ngoại xâm của toàn dân không còn toàn vẹn như xưa.
Thật vậy, trong suốt thời gian kể từ khi ông HCM là cán bộ của đệ tam
cộng sản quốc tế, ông đã đem CNCS vào VN và thi hành những chính sách
của chủ nghĩa này theo sự chỉ đạo của Staline và Mao trạch Đông. Kể từ
đó, bộ mặt và tình hình chính trị xã hội miền bắc VN trước 1975 nói
riêng và cả nước từ ngày 30/4/1975 nói chung, đã hoàn toàn lệ thuộc vào
thiên đường không tưởng mà cả hệ thống CNCS vạch ra cho một thế giới
đại đồng theo chiều hướng CNXH bởi vì, sinh thời ông HCM thường tuyên
bố rằng: "ai có thể sai chớ Staline và Mao trạch Đông thì không bao giờ
sai”. Nếu cả hệ thống CNCS không bị sụp đổ hoàn toàn ở Liên sô và Đông
âu vào những năm cuối thập niên 1980, thì ngày nay cả loài người trên
thế giới không biết sẽ ra sao?, cũng như nếu ĐCSVN không thức thời đổi
mới kimh tế theo chiều hướng kinh tế thị trường của nền dân chủ đa
thành phần của tư bản thì chắc chắn ĐCSVN sẽ không bao giờ còn tồn tại
đến ngày nay.
Cũng vì trung thành với CNCS và đường lối của Staline và Mao trạch Đông
vạch ra cho nên, nhân dân VN mới trải qua những hận thù và thanh trừng
đấu tranh giai cấp đầy máu từ chủ trương nhất quán của CNCS mà chủ tịch
HCM trong vai trò lãnh đạo chỉ biết vâng lệnh của Staline cùng Mao
trạch Đông, bằng chứng là trong phong trào cải cách ruộng đất
(1953-1956) chính ông HCM cũng không đủ uy quyền để giữ lại mạng sống
của những ân nhân đã từng nuôi nấng và đùm bọc ông cùng các thành phần
khác của ĐCSVN trong suốt thời gian đảng còn hoạt động trong bí mật,
chẳng hạn như bà Nguyễn thị Năm người đã từng đem cả gia tài để hiến
dâng cho đảng, bà còn có một đứa con đi theo ĐCSVN với chức vụ trung
đoàn trưởng.
Nhưng trớ trêu thay, vì bà thuộc thành phần giàu có cho nên nằm trong
diện phải bị thanh trừng theo lệnh của các cố vấn từ Liên sô và TQ gởi
qua để chỉ đạo, phát súng đầu tiên dành cho một người đàn bà giàu có đã
từng hy sinh cả mạng sống, cả gia tài của mình cho sự tồn vong của
đảng, đây là một sĩ nhục cho nền đạo lý của cả dân tộc và sự độc lập,
tự chủ của đất nước. Và cũng vì trung thành với đường lối đấu tranh
giai cấp theo kiểu CNCS, xem các thành phần giàu có, trí thức là kẻ thù
cho nên, sau khi triệt hạ hết thành phần giàu có trong xã hội xong thì
bước kế tiếp là các thành phần trí thức.
Phong trào trăm hoa đua nở trong chiến dịch Nhân văn giai phẩm
(1956-1958) là bước cuối cùng để ông HCM và các thành phần nồng cốt của
ĐCSVN thanh trừng hết những ai không cùng quan điểm với ông. Trên 180
ngàn người dân vô tội bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất và những
nhân vật trí thức văn sĩ, nhà thơ bị tù đầy, đó là chiến công để ông
HCM dâng lên Staline và Mao trạch Đông, thật đúng với bài thơ của Tố
Hữu được đảng tôn vinh là đại văn hào của đảng:
Giết giết nữa bàn tay không ngừng nghỉ
Cho ruộng đồng tươi tốt, lúa mau xanh
Cho đảng bền lâu giục bước quân hành
Thờ Mao chủ tịch, thờ Staline bất diệt
Những lời nói tự do dân chủ, nhân quyền và bình đẳng lấy từ bảng tuyên
ngôn độc lập của Pháp, của Mỹ mà ông HCM đã đọc trước toàn dân miền bắc
tại Ba đình (Hà nội) ngày 2/9/1945 chẳng qua là những lời phát biểu
suông nhằm gây sự ủng hộ trong nhân dân, cũng như sau đó với một hiến
pháp năm 1946 có sự tham gia của các đảng phái để cùng nhau chống ngoại
xâm, đó chỉ là một xão trá để ông HCM dễ dàng trong mưu đồ tiêu diệt
các đảng phái và những ai không chịu phục tùng CNCS.
Chính vì thế mà Việt nam quốc dân đảng, đảng Đại Việt, Dân xã đảng…… đã
bị ông HCM diệt gọn một cách mau chóng, còn đảng Dân chủ, đảng Xã hội
sỡ dĩ vẫn còn tồn tại cho đến sau 1975 một thời gian mới tự giải thể là
vì 2 đảng này từ ĐCSVN đẻ ra để nhằm che mắt thế giới và nhân dân VN,
hầu thực hiện con đường độc tài, độc đoán của mình. Biết bao nhân tài
trí thức đã bị ông HCM lợi dụng và thủ tiêu như cụ Phan Bội Châu, giáo
chủ PGHH Huỳnh Phú Sổ…v.v…, cũng có người khi biết được sự thật thì ôm
hận suốt đời cho tới chết như GSTS Nguyễn mạnh Tường, bác sĩ Trịnh đình
Thảo…v.v… Vì thế cho nên, chúng ta không ngạc nhiên khi trình độ hiểu
biết, sự nhận thức cùng cuộc sống và mọi quyền tự do dân chủ của nhân
dân miền Bắc trước 1975 đã thua rất xa nhân dân miền Nam. ĐCSVN đã
thành công trong chiêu bài giả dối, bẽ cong sự thật để bắt mọi người
phải tin vào sự tuyên truyền của đảng, chẳng hạn như cậu bé anh hùng Lê
văn Tám là sự bịa đặt của ông Trần huy Liệu, được nhà sử học GS Phan
huy Lê tiết lộ theo yêu cầu của ông Trần huy Liệu để sự thật được trả
về cho sự thật trước khi ông đi về cõi chết...v.v… Nhưng cho đến ngày
hôm nay, cái giả dối này vẫn được tôn vinh và tồn tại như là một sự
thật hiển nhiên trong nền giáo dục VN.
Ý đồ thống nhất cả nước dưới màu cờ đỏ và ngôi sao vàng là chủ trương
của ông HCM có từ trước khi đất nước bị chia đôi. Do đó, chiêu bài
chống Mỹ cứu nước cũng là một hành động mỵ dân bởi vì, ai cũng biết là
nếu sau khi ký HĐ Geneve 1954 chia đôi đất nước, 2 miền Nam-Bắc được tự
do đi theo chính thể riêng để chờ thời gian thống nhất đất nước xuyên
qua tổng tuyển cử cho toàn dân lựa chọn, quân đội của ĐCSVN ở miền Bắc
không vào giải phóng miền Nam VN thì làm gì có chuyện chính phủ VNCH ở
miền Nam vì sức yếu cho nên phải nhờ vào sự trợ giúp của quân đội Hoa
kỳ và đồng minh trong các nước tự do dân chủ. Quân đội của MTGPMN được
thành lập vào tháng 12/1960 nói là của nhân dân miền Nam nhưng thực
chất là do chính ĐCSVN tạo ra, quân đội HK và các đồng minh của VNCH
chỉ có mặt ở miền Nam VN kể từ năm 1965 vì lúc đó, quân đội của VNCH
còn yếu không đủ khả năng đương đầu với quân đội CS miền Bắc được sự
yểm trợ dồi dào của Liên sô-Trung cộng, còn toàn bộ thành phần chính
phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam VN thành lập năm 1969 để dọn
đường cho việc ký kết HĐ Paris ngày 27/1/1973 là cũng do ĐCSVN tạo ra,
vì toàn bộ thành phần lãnh đạo đều là đảng viên ĐCSVN. Người viết xin
ghi lại những điểm chính đã được quy định trong bảng HĐ Paris như sau:
- 1/- Ngưng chiến giữa 2 chính phủ của miền Nam VN là VNCH và
CMLTCHMNVN, quân đội của 2 chính phủ miền Nam VN án binh bất động dưới
sự kiểm soát của ủy ban kiểm soát quốc tế.
- 2/- Tất cả quân đội nào không phải của 2 bên chính phủ miền Nam
VN thì hoàn toàn phải rút ra khỏi lãnh thổ của miền Nam VN. Dĩ nhiên
quân đội của miền Bắc VN cũng phải rút khỏi miền Nam VN như quân đội
Hoa kỳ và đồng minh của VNCH.
- 3/- Trao trả tù binh và cho nhân dân của 2 miền Nam-Bắc được gởi thư và thăm viếng nhau.
- 4/- Sẽ có một cuộc bầu cử với sự tham gia của 3 thành phần để
cho nhân dân miền Nam VN tự do chọn lựa đó là chính phủ VNCH, chính phủ
CMLTCHMNVN và thành phần thứ 3 trung lập.
Tuy nhiên, như mọi người đều biết trong khi quân đội Hoa kỳ và đồng
minh của VNCH đã hoàn tất việc rút quân ra khỏi miền Nam VN đúng thời
gian quy định của HĐ thì trái lại, quân đội miền Bắc của ĐCSVN lại dồn
hết lực lượng vào miền Nam, những cuộc tiến công đánh phá các tiền đồn,
các vùng đất của quân dân miền Nam VN đã xãy ra hàng ngày, hàng giờ
trước sự vô cảm của ủy ban kiểm soát quốc tế và Hoa kỳ, bất chấp sự
phản đối của chính phủ VNCH về việc vi phạm HĐ của chính quyền CS miền
Bắc VNDCCH, đã khiến cho sự chiến đấu tự vệ của quân đội VNCH gặp rất
nhiều khó khăn. Lúc này Hoa kỳ vì quyền lợi riêng đã đi đêm với Bắc
kinh cúp hoàn toàn viện trợ như đã hứa đối với VNCH, làm ngơ và không
phản đối về sự vi phạm HĐ trầm trọng của quân đội CSBV cũng như hải
quân Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng sa của VN. Trong tình cảnh bi
đát như vậy thì chiến thắng ngày 30/4/1975 của ĐCSVN là đương nhiên, và
chiêu bài chống Mỹ cứu nước mà các nhà lãnh đạo CSVN thường xuyên tuyên
truyền trong nhân dân chỉ là giả dối.
Quá khứ là việc đã qua, còn tương lai là việc sẽ đến. Sau khi chiếm
được miền Nam và thống nhất đất nước rồi, cũng như đã nhìn thấy được
cuộc sống sung túc của nhân dân miền Nam, nếu các nhà lãnh đạo ĐCSVN
không vì quyền lợi cá nhân, không vì hận thù giai cấp, không vì trung
thành với đường lối ngoại lai CNCS…v.v… mà thực hiện đúng với chủ
trương hòa hợp hòa giải dân tộc theo quy định của HĐ, xóa bỏ hận thù,
tôn trọng mọi quyền sống và quyền tự do của nhân dân để cùng với nhân
dân xây dựng lại những gì đã mất trong chiến tranh….., thì ngày nay đất
nước VN đâu phải nằm trong danh sách nghèo của thế giới, lao động VN
đâu phải đem thân làm trâu ngựa nơi xứ người để gánh chịu nhiều cảnh
bất công qua chương trình hợp tác lao động, những cô gái VN đâu phải
trần truồng để cho đàn ông Đài loan, Hàn quốc lựa chọn làm vợ.
Cũng vì tham vọng giải phóng miền Nam mà các nhà lãnh đạo mới đi theo
con đường CNCS, mới lệ thuộc hoàn toàn vào quỷ đạo của Liên sô- TQ, mới
có công hàm công nhận HS-TS là của TQ do thủ tướng Phạm văn Đồng ký
ngày 14/9/1958. Chính cái công hàm phản quốc này của ông Phạm văn Đồng
dưới sự chỉ đạo của ông HCM mà ngày nay bọn xâm lăng TQ mới có cớ chiếm
các hòn đảo chiến lược ở TS của VN, ngang nhiên tự xem 80% vùng biển
đông là của chúng. Trớ trêu thay, các thành phần lãnh đạo CSVN hiện nay
chẵng những không tìm cơ sở pháp lý để công khai phủ nhận cái công hàm
này. Trái lại, còn ra lệnh cho công an thẳng tay đàn áp những ai biểu
tình hoặc có biểu hiện chống bọn xâm lăng TQ. Chính quyền CSVN hiện
nay, qua 15 nhân vật trong BCT và nhất là đương kim thủ tướng Nguyễn
tấn Dũng đã ký hiệp định về biên giới tháng 12/1999 dâng Ải Nam Quan,
bãi Tục Lãm và 2/3 danh thắng thác Bãn Giốc cho TQ, năm sau lại ký tiếp
bảng hiệp ước về vùng biển tháng 12/2000 dâng thêm trên 8000km2 vùng
biển Bắc bộ cho TQ nữa. Với mưu đồ chiếm trọn VN bằng phương pháp mềm,
bọn bá quyền TQ đã lợi dụng sự tham danh lợi, sự dốt nát và sự trung
thành với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt của các nhà lãnh đạo CSVN,
TQ đã đi đêm, mua chuộc và đút lót với các quan chức CSVN để họ dễ dàng
thực hiện cái nưu đồ của họ. Vì thế cho nên, gần hết các công trình
trọng điểm quốc gia đều được các công ty TQ trúng thầu và cũng chẳng có
công trình nào các nhà thầu TQ thi công đúng kỷ thuật, đúng tiến độ
thời gian.
Điều quan trọng là hiện nay trên 300 ngàn hecta rừng chiến lược của 10
tỉnh biên giới được TQ thuê làm chủ trong thời gian 50 năm, cùng với
việc TQ tự do khai thác quặng Bauxite ở Tây Nguyên đây là huyết mạch
của VN và cũng là nóc nhà của Đông dương, bất chấp sự can ngăn của đại
tướng Võ nguyên Giáp cùng với hầu hết các nhà khoa học chuyên môn, trí
thức trong và ngoài nước, bất chấp sự cố bùn đỏ bauxite đã xảy ra ở
Hungary cũng như vỡ đập chắn nước thải bùn đỏ của công ty luyện kim
tỉnh Cao bằng. Đặc biệt, trong bảng kiến nghị dừng khai thác Bauxite
lần thứ 2 đang được nhóm giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Thế
Hùng (trang web boxitvn) phát động có sự tham gia ký tên của các thành
viên trí thức hội IDS tự giải thể vì không chịu nỗi QĐ 97 cấm phản biện
công khai của thủ tướng Nguyễn tấn Dũng, cho đến hôm nay bảng kiến nghị
này đã quy tụ được gần 3000 người trong đó, có cả nguyên phó chủ nước
Nguyễn thị Bình, nguyên thứ trưởng bộ TN-MT Đặng hùng Võ, GSTS Ngô Bảo
Châu vừa đoạt giải Fields giỏi toán nhất thế giới. Riêng GSTS Ngô Bảo
Châu cũng có riêng lá thư kiến nghị gởi lãnh đạo đảng và Quốc hội VN.
Bản kiến nghị kỳ này cũng có sự tham gia và lên tiếng của luật gia Lê
hiếu Đằng hiện là phó chủ nhiệm hội đồng tư vấn về dân chủ-pháp luật
của UBTWMTTQVN, trong một bài viết đăng trên trang web bauxite VN ngày
11/11/2010 của ông có đoạn "….. Tôi xin thẳng thắn đặt câu hỏi, có ai
đã ngăn cản các phương tiện truyền thông công bố kiến nghị trên?. Nếu
có thì tức là tước quyền được thông tin của nhân dân, quyền được hiến
pháp và luật pháp bảo hộ. Như thế người ngăn cản đã vi phạm pháp luật
của nước CHXHCNVN…… Đã đến lúc tất cả chúng ta, cán bộ, đảng viên, nhân
dân phải có ý kiến không thể nhân nhượng, không thể dĩ hòa vi quý với
cái sai, cái nguy hại cho đất nước, cho dân tộc. Chúng ta không có gì
phải sợ vì chúng ta trong sáng, chúng ta thực tâm yêu nước thương nòi,
chúng ta làm đúng theo hiến pháp và pháp luật”, ông còn kêu gọi chủ
tịch nước Nguyễn minh Triết, thường trực BBT TW đảng Trương tấn Sang và
ông Lê thanh Hải hãy mạnh dạn lên tiếng đấu tranh để ngăn chặn dự án
khai thác Bauxite Tây nguyên. Còn biên bản cuộc hội thảo khoa học của
19 đảng viên trí thức đã từng giữ những chức vụ cao cấp trong đảng ngày
7/10/2010 do GS Trần Phương nguyên phó thủ tướng, hiện là chủ tịch hội
KH-KT VN làm chủ trì. Tất cả đều nhận định là XHCN và tư tưởng
Marx-Lenin là đầy dẫy cái sai và quá mơ hồ, biên bản được chuyển tới
ban văn kiện ĐH sắp tới của đảng, phần cuối có ghi: Trách nhiệm của nhà
nghiên cứu là nói trung thực, thẳng thắn và xây dựng, mong muốn đảng
mạnh lên, đất nước mạnh lên. Dù không được chấp thuận, nhưng ít ra cũng
lưu vào văn bản, lưu lại hậu thế rằng: năm 2010 có một số nhà kinh tế
đã nói như vậy, để hậu thế biết rằng, hóa ra đất nước cũng còn những
trí thức không đến nỗi dốt nát.
Như thế là quá rõ ràng cho một tiếng nói chung của cộng đồng dân tộc,
những lời hứa bảo đảm của các viên chức chính quyền trong nội các
Nguyễn tấn Dũng để tiếp tục cho TQ khai thác bauxite Tây nguyên là vô
căn cứ không thể tin được. Nếu cứ tiếp tục thì một đại họa cho dân tộc
trong tương lai của 30 năm hoặc 50 tới thì ai chịu trách nhiệm đây, đó
là chưa nói đến chuyện mất nước trong một tương lai gần khi TQ có đủ
điều kiện để khởi động chiến tranh đánh VN như họ đã từng làm vào năm
1979, chưa ai biết được hiện nay số tình báo và công nhân đội lớp quân
nhân của TQ ở VN là bao nhiêu?.
Các nhà lãnh đạo CSVN hiện nay đã không đủ tài, không đủ đức để lãnh
đạo đất nước, không đủ trí tuệ để đối đầu với ngoại bang nhất là bọn
xâm lăng TQ, không đủ khả năng để chống tham nhũng bởi vì chính họ là
trùm tham nhũng, họ là những tư bản đỏ của thời đại với tài sãn vô hạn
định, tiền bạc của họ gởi trong ngân hàng nặc danh Thụy sĩ mỗi người
hàng trăm thậm chí hàng tỷ đô la, các vụ án chưa được làm sáng tỏ của
PUM 18, TC2, PCI, nhất là vụ phá sãn tập đoàn Vinashine với số nợ trên
100 ngàn tỷ đồng….v.v…. là một nỗi đau vô cùng to lớn mà cả dân tộc VN
không biết đến khi nào mới khắc phục hết được. Hiện tại các nhà lãnh
đạo ĐCSVN chỉ còn có một con đường duy nhất để giữ vững danh lợi cá
nhân là hy vọng vào sự trung thành của lực lượng công an, quân đội chỉ
biết còn đảng còn mình.
Tuy nhiên, nếu nghĩ về luật nhân quả và sự vận hành của luật đào thải
thì mọi sự việc trên thế gian này sẽ luôn luôn thay đổi và cải tiến
không ngừng, do đó cái ác sẽ không bao giờ tồn tại mãi được. Trong thời
đại Internet ngày nay không có cái giả dối nào được bưng bít lâu dài,
bằng chứng là những luận điệu vu khống của chính quyền và công an để
bắt các nhà đấu tranh dân chủ ôn hòa, nhất là những tấm hình giả dối
được lắp ghép bằng hệ photoshop để bắt nhà văn Trần Khải Thanh Thủy
trước đây, và TS luật Cù Huy Hà Vũ đêm 4/11/2010 vừa qua đã nhanh chóng
được cả cộng đồng thế giới phát hiện và lên án.
Người viết xin có câu hỏi đến các chiến sĩ trong quân đội nhân dân,
công an nhân dân rằng: chính quyền CS hiện nay quy tụ những thành phần
tham nhũng, độc tài và không có trình độ chuyên môn, đa số đều là học
giả, bằng cấp giả, lệ thuộc vào kẻ thù và ngang nhiên dâng hiến đất đai
của đất nước và quyền lợi của nhân dân cho kẻ thù, hầu hết các nhà trí
thức trong đảng cũng như ngoài đảng đều lên tiếng phê bình và phản bác,
như thế có xứng đáng để cho quý vị hết lòng phục vụ hay không?. Để cứu
nguy đất nước khỏi bị diệt vong, chỉ có một con đường duy nhất là các
nhà lãnh đạo ĐCSVN phải từ bỏ sự độc tài, độc đoán, từ bỏ danh lợi
riêng tư để trở về với cộng đồng dân tộc, trả lại cho nhân dân các
quyền tự do căn bản như: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do ứng cử
và bầu cử, tự do tín ngưỡng…v.v…., thực hiện ngay con đường đa nguyên
đa đảng, thả tất cả các nhà bất đồng chính kiến trong tinh thần đại
đoàn kết dân tộc, để nhận sự hậu thuẫn của cộng đồng thế giới và sự trở
về của các nhân tài trí thức VN hải ngoại trên con đường xây dựng quê
hương. Khi đó, ĐCSVN cũng sẽ là một trong những chính đảng cùng tồn tại
song hành với dân tộc, lực lượng quân đội và công an sẽ trở về với
nhiệm vụ chính của mình là bảo vệ đất nước và nhân dân, chớ không bảo
vệ cho riêng bất cứ một đảng phái nào cả, cho dù đó là đảng đang cầm
quyền. Cuộc sống sung túc và tự do của người dân trong các nước Đông âu
hiện nay là một minh chứng hùng hồn cho con đường dân chủ hóa VN.
Người viết tin chắc rằng, rồi đây các cấp chỉ huy quân đội và công an
nhân dân VN sẽ nhìn ra được sự thật để làm sống lại lịch sữ oai hùng
của dân tộc, làm sống lại hào khí của hội nghị Diên Hồng mà vị vua anh
minh Trần Nhân Tôn đã một thời vang danh trong sử sách. Mong lắm thay!
Sài Gòn ngày 25/11/2010
Trần Bảo Việt
Nguồn : Fightforvietnam.multiply.com
|