Nhân Quyền: Đừng
bao giờ nghĩ đến thoái trào, bọn công an đã đang đến lúc thấm mệt rồi
đấy, hãy tin vào sức mạnh của chính nghĩa. Chính nghĩa là lòng dân
Chống Giặc Tàu cứu nước. Không một chế độ nào trên thế giới này có thể
đàn áp được lòng yêu tổ quốc của toàn dân đâu, qúy vị hãy vững tin vào
điều tất thắng đó.
Đề nghị qúy vị hãy tiếp tục xuống đường biểu tình liên tiếp vào 2
ngày thứ bảy và chủ nhật, 25 và 26/6/2011. Hai ngày liên tiếp
này để tất cả các tôn giáo đều cùng xuống đường chung vào ngày thứ
bảy, để mọi người cùng tiếp sức với nhau. Dù không xuống đường được,
cũng làm cho bộ phận công an bị mõi mệt trong 2 ngày liền. Sức công an
cũng có hạn, bọn chúng bị cấm trại liên tục 2 ngày trong một tuần sẽ
biết cái mệt, chặt đi những ăn chơi sa đọa của bọn công an trong 2 ngày
liền, bọn chúng sẽ không còn hơi sức để đàn áp người dân nữa, có thể
bọn chúng sẽ quay lại chống lại những kẻ sai khiến bọn họ. Bọn công an
ăn chơi, nhậu nhẹt này sẽ không quen dừng bước ăn chơi của chúng nó
đâu. Nên nhớ, trong số bọn công an này cũng có người Chống Giặc Tàu cứu
nước.
Hãy đọc bài viết của chị Dương Thu Hương và cùng nhau xuống đường ngày 25 và 26/6/2011 này.
Ngày 20/6/2011
Xin phổ biến tự do
PS:
Bài viết của nhà văn Dương Thu Hương:
Lột Trần Chế Độ CSVN Dương Thu Hương
Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất
từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần
khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi
khắp bãi bờ các quốc gia khác. Với dân chúng trong nước, giờ đây họ
thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu,
họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển
bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản
mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn,
những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng
tối che đậy. Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng.
Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ
sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào
cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt
nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự
thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ
là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các
nòng súng sẽ đổi hướng. Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội "Ngàn năm
Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn
nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một
nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng
quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi,
như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh
năm 1979. . . Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì? Khi con
gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại
lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở
ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng
như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được
chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của
họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải
tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp
tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu. Ai đó từng nói câu này: "Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”. Giai
cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát
tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác.
Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng
khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi
có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền
lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha. Lấy ví dụ về tập
đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy
sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la
ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu "bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt
trên đất liền để làm "hiện vật bảo tàng”. Nghe tưởng như chuyện
đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt
Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang
ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương
thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được
quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này. Lấy ví dụ thứ hai: các
vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều
này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn
người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu
có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt
Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng. Đã là lái
buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật
thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là
"dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy
túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng
sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các
công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải
điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì
lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi "chuyên
chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay. Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay: "Được
Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa
Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày
9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh
Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền
đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại
Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề
còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số
khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công,
biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . . ” Thứ
nhất, tác giả bài báo này quên rằng "Kích động công nhân đình công,
biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là
đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách
mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế
giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám
chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa
người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao
động bị đe doạ. Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng
đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn
những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ
phẩm của người, tức "dưới người”, nói cách khác: "người vượn
Néandertal”? Thứ hai, câu "lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế
độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự
vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản
Việt Nam đang thực thi chính sách "bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần
hồng”. Tại sao lại "bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước
ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm
tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện
để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo
và sợhãi. Tại sao lại "đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc
này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt
ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây
giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi
vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này
chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm
chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy. Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó. Đám
cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự "kiêu ngạo cộng sản” xuống
vũng bùn của"các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa
sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ
mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ "khỉ khoác quần áo”, thứ
"nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu
Lenin của họ từng cảnh báo trước đây. Trong cuộc sống tối tăm, nhục
nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc
thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở
thành các nhà sáng lập triều đình. Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng
chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều
Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng
chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi
nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là
viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội
chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất
Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều
vua này từng tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Và cuộc sống mái
của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải
quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q,
đàn bà không bó chân nhưcác mợ Tầu. Tuân theo logic ấy, triều cộng sản
được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây.
Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công
"dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nốitiếp truyền thống của các Vua
nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông
quý hơn tròng mắt của chính họ. Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng? Còn
hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu đểcắm ngọn cờ
hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm
bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề "Quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh”? Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở. Nếu
những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói
sẽ là "Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọnày đã bôi nhọ
mặt chúng ta!” Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1
tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc.
Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm
nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng? Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt
nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không lẽ
cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người
này mắc bệnh thiểu năng? Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng
trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại
tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con
bệnh bịtiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng
nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và
tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu
thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay
trước lũ bán nước. Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt. 1.
Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành
Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được
treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một
khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự
xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao
kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà
Nội. 2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng
tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất
nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt. Chọn ngày quốc khánh
Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để
mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở
thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình. Nếu như
năm 1945, cha anh họlà các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây,
trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những
cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử.
Người Việt Nam ta có câu "hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không
những là những con "cẩu tử” mà còn là "cẩu ghẻ”, "cẩu sida”. Những
người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họlà những con cẩu
ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một
thành tố có tên gọi "chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu
dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất
trong kí ức là "giặc phương Bắc”. Cuộc thực dân hoá của Pháp 100
năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ
biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó
mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô
hoàng đế, hôm sau đã biến thành "Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường
bán nước”. Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành
vi bán nước của ông ta. Còn câu ca "Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà”
mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ
trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã
bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu
Thống và Nguyễn Ánh. Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính
xác, tôi xin nhại lại câu "cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà
rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn "dẫn hổ về thịt dê nhà” DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ. Tại sao lại là hổ và dê? Hổ,
vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều
lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ
không thể là con rắn. Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽthấy rằng
toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính
là phầnsống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt
lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai
hàm răng của nó. Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt,
Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, "công
đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻdựng lên công
trình bauxite Tây nguyên? Bauxite ư? Trò lừa đảo! Thiếu gì các
quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai,
Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite
để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán
chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thếgiới cũng
công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ
Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển
nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật? Nhà
cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi
con tính của họlà trở thành một thứ "Thái thú Tô Định hiện đại”, được
hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều. Còn Việt Nam biến thành một
tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc.
. . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược
lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô
lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý
thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ
chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản
kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn
Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam
vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán. Ông
nghị Trần nói rằng "Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có
phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà
tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù,
chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộbây giờ tổ chức
rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh
uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản
này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ” Những
lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của
tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng
để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn
tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà.
Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ
lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON. Bác chúng em Vào
những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản,
người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ
những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là "Người công an nhân
dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”. Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản. Nhưng
ông Lê Giản đã chết và"Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái
chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không
phải là vô hình vô ảnh. Tôi chứng minh: Cách đây ngót ba thập
kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từphương bắc tràn vào nước ta, các
phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụđã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ
hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại
cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác
nhân gây ra bệnh ung thư. Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực
trên vì "sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm
chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha
mẹ vợchẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh
cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn
thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung
thư và sẽ chết vì bệnh đó. Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao
thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻngồi quanh bàn họp bộ
chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn
dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng,
bỏmặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn! Đối với
tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày
ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sựchuyển biến chất lượng này:
từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với
nhân dân. Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trởthành kẻ thù của nhân dân. Bây
giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo
vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệông chủ của nó? Hãy
xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp
đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là
người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long
An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu "Trả
đất cho dân”, "Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị
đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối
xử ra sao? Mấy thế kỉđã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao
chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:"Đầy nhà
một lũ ruồi xanh” và"Đầu trâu mặt ngựa ào ào nhưsôi”. Gần đây nhất,
hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh
Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần
tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết. Tôi tự hỏi, có lúc nào những
người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng
khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân
tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá? Nếu là những người mà
nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao
họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những
sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu?
Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị
khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên
không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ? Vì chưa từng là công an,
nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trảlời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét
thứhai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy
ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay. Nhiều người biết
rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh
chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội
danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở
xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông
lênủng hộ gia đình nạn nhân, con sốlên đến hàng ngàn người, làm thành
một cuộc biểu tình rầm rộchưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà
theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt
Minh cướp chính quyền năm Ất dậu. Trong sự kiện này, tôi chú ý đến
một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân
chúng, nhưng trước khí thếcăm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng
chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc
nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc
lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con
đường bỏ chạy để thoát thân. Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản
thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa nhưông nghị Nguyễn
Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà
để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họcũng
không phải là "thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo
đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp
lính bây giờtương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít
thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc
cách mạng dân chủ xảy ra ởNga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới
rồi. Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín
nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cảthì đó
là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng
cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ
sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ. Khi lòng dũng
cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị
kỉ của mỗicon người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản
đểchủ nghĩa cuồng tín không thểđặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà. Một
người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính
toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có
trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với
lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉđể làm nặng thêm túi tiền các
quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (nhưông chủ
tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộvà các ông khác
chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt
tiền nhằm bổdưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám
mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân
vân. . . Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân
thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả
mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân
thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống
chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất
cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi
súng của nhân dân. Dân Việt : Ai là dân Việt? Phải chăng đó
là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống
ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá
như chín mươi chín tộc Việt kia? Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều? Ngoài
các lý do về nhu cầu bờbiển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn
một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu
cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt. Niềm kiêu hãnh Đại
quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã
thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi
chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua?Ở thế
thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh
đất cỏn con, dường như là một "vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua
chúa Trung Hoa không chịu được. Cách đây vài năm, ai đó từng nói
với tôi rằng "Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về
chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”. Đó là một nhận định sáng suốt. Năm
trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra
dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúngủng hộ xâm chiếm Việt Nam.
Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng
Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân
theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là
trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ. Năm
nay đã là năm 2010, thế kỉ21, Trung Quốc không còn sống dưới vương
triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt.
Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn
hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho
rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu
thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự
đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái "hòn xôi
Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉlàm ngáng họng đám cầm quyền mà
cũng còn làm ngứa ngáy cổhọng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có
mẫu số chung. Vì lý do nào mà bộ trưởng bộquốc phòng Trung Quốc làm
cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có
chủ định? Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra
hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ "lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng.
Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố
một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt
ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là
chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương? Liệu
nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu
như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tựnguyện
biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán? Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời. Tôi
chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không
bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt
mỏi đểchống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh
mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia. Để tồn tại và được là
chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử
của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: "Nam tiến”! Nam tiến, nam tiến và nam tiến! Cuộc
Nam tiến thứ nhất khởi sựdưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ
đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng
Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn
nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và
lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt
qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp
tục cho đến mũi Cà Mau. Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta. Bây
giờ, chúng ta không còn cơhội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta
không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi
đâu? Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai,
đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là
nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào
để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau. Để giữ
được non sông, để có thểlà người Việt mà không trở thành đám thiểu số
khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung
dưỡng một chính quyền bán nước, mộtchính quyền đã ngang nhiên cắt đất,
cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long ngàn
năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta
không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình
một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì
trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu.
Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã
chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu. Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một
người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán
nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai
tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống
đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi
nước bọt để trừng phạt "con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền,
tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do
lòng đồng cảm với "Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”. Dân Việt vốn không
cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ
tình. Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm
trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng
chẳng luỵ tình ai, nó chỉluỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán
của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú
chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộlông của chính nó mà
thôi. Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc. Người
dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần
vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại sốphận bi thảm của An
Dương Vương. Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội khôngđứng lên cùng với họ. Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ? DƯƠNG THU HƯƠNG
|