Điểm lại những diễn biến mấy năm gần đây, người ta dễ có cảm giác là
ngành điện lực Việt Nam giống như một cô gái cuồng si, mê muội cứ một
hai nhào vô vòng tay đầy lông lá của gã người yêu tráo trở và bất nhân
họ Sở:
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
ngày 8/8/2012 đưa tin: "Trong khi nhiều doanh nghiệp trong nước kêu ca
về việc Tập đoàn điện lực (EVN) không mua hết điện trong nước sản xuất
thì lượng điện mua từ Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng và giá mua cũng
tăng.”
Báo Tiền Phong ngày 26/7/2012 đăng bài
"EVN thích mua điện Trung Quốc giá cao?”:
Trong khi ra sức ép các nhà máy thủy điện, thậm chí họ phải chào giá 0
đồng để được chạy máy thì Tập đoàn Điện lực VN (EVN) lại vác tiền đi mua
điện của Trung Quốc với giá cao gấp 2 đến 3 lần.
Báo Công An Nhân Dân ngày 5/5/2012 đăng bài
"Mua điện Trung Quốc giá cao hơn trong nước 37%”:
Tuy nhiên, vấn đề gây bức xúc trong toàn bộ câu chuyện này là ở chỗ
trong khi các nhà máy chịu lỗ, chịu bị cắt giảm công suất vì thừa điện,
thì ngược lại chúng ta vẫn phải bỏ ngoại tệ ra để mua điện Trung Quốc
với giá cao. Theo các nhà máy phản ánh, trong năm 2011, Tổng Công ty
Điện lực miền Bắc mua điện của Trung Quốc với giá 6,08 cent, tương đương
1.268 đồng/KWh, cao hơn khoảng 37% với giá mua điện trong nước. Chưa kể
trong đàm phán mua điện của họ, các điều kiện là hết sức ngặt nghèo,
chúng ta bị ép đủ kiểu và luôn treo trên đầu khả năng bị phạt hợp đồng
rất lớn.
Báo
Sài Gòn Tiếp Thị
ngày 14/3/2011 đăng bài "Giá mua điện Trung Quốc ngày càng đắt đỏ”, cho
thấy cái sự đắt đỏ này không chỉ thể hiện ở giá cả: Tuy nhiên, thực tế
thời gian qua, Việt Nam cũng hứng chịu không ít những khó khăn khi phải
phụ thuộc ít nhiều vào đối tác bán điện này. Đơn cử như tháng 3.2010,
đúng lúc thuỷ điện miền Bắc sụt giảm trầm trọng thì công ty lưới điện
Vân Nam, Trung Quốc lại tạm ngưng cấp điện đường dây 220kV Tân Kiều –
Lào Cai và 110kV Hà Khẩu – Lào Cai. Lý do là... để thi công công trình…
Trong khi đó, việc mua điện của Trung Quốc phải thực hiện theo hợp đồng
thương mại rất chặt chẽ. Chỉ cần sử dụng tăng hay giảm sản lượng điện so
với mức đăng ký trong hợp đồng, phía Việt Nam ngay lập tức sẽ bị phía
Trung Quốc phạt.
Và đây là nguyên nhân cho thực trạng đáng phải đặt dấu hỏi nói trên: Tại
phiên họp thường kỳ tháng 3/2007
của Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cho phép mua điện Trung
Quốc để cung cấp cho lưới điện trong nước. Không dừng lại ở đó, đầu
tháng 9/2010, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải còn giao cho EVN
đàm phán để nhập khẩu điện dài hạn
từ Trung Quốc; thậm chí, ngài PTT còn chỉ đạo EVN nghiên cứu tính khả
thi của quy hoạch đấu nối lưới điện 500KV với Trung Quốc (!?).
Chuyện mua bán điện thành phẩm thì vậy, còn các dự án sản xuất điện thì
cũng chẳng khác gì khi mà các nhà thầu Trung Quốc luôn được ưu ái quá
mức một cách khó hiểu. Thời gian qua, có tới
90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hoá chất của Việt Nam là do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận. Ngoài việc
cung cấp thiết bị
và tham gia xử lý sự cố rò rỉ nước qua thân đập chính của nhà máy thuỷ
điện Sông Tranh 2, các nhà thầu Trung Quốc còn trúng thầu hàng loạt
dự án thuỷ điện
khác, vốn rất nhạy cảm về an ninh - quốc phòng. Các nhà thầu Trung Quốc
đã trúng thầu tới 13 dự án nhiệt điện than dưới dạng EPC (chìa khóa
trao tay), chiếm gần 30% công suất toàn ngành điện, trong khi họ lại
luôn "nổi tiếng” về chất lượng công trình thấp kém và tình trạng chậm
tiến độ triền miên: Nhà máy nhiệt điện Sơn Động chậm 24 tháng; nhà máy
nhiệt điện Nông Sơn chậm 20 tháng; nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn chậm 28
tháng; nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả 1 chậm 10 tháng, nhiệt điện Cẩm Phả 2
chậm 3 tháng; nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 1 và 2 chậm 18 tháng; nhà máy
nhiệt điện Quảng Ninh 1, 2 chậm 24 tháng... (Báo
Đại Đoàn Kết ngày 2/3/2012). Trong
văn bản kiến nghị
gửi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng CP và Chủ tịch QH ngày
15/9/2011, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam chỉ rõ: "Kịch bản chung là các
nhà thầu Trung Quốc luôn hứa cung cấp đủ vốn cho dự án, nhưng thực chất
là thiếu công nghệ, thiết bị không đồng bộ, chưa nói chất lượng thiết bị
của nước này không bằng thiết bị của các nước phát triển. Vì lẽ đó mới
dẫn đến việc triển khai các dự án vừa chậm trong xây dựng và cả chậm
trong quá trình hoàn chỉnh để đưa dự án vào vận hành.” Với các dự án mà
nhà thầu Trung Quốc trúng thầu, họ đều tìm cách
đưa ồ ạt người Trung Quốc sang làm,
không thuê kỹ sư, công nhân của Việt Nam, không tạo công ăn việc làm
cho các địa phương có dự án. Ngoài ra, các dự án điện do nhà thầu Trung
Quốc thực hiện sau khi hoàn thành lại phụ thuộc vào công nghệ, thiết bị,
vật liệu của Trung Quốc, thường là "chẳng giống ai”.
Thực tế trên đây khiến cho nền kinh tế Việt Nam thiệt hại đủ đường, cũng
như tiềm ẩn những hệ luỵ khó lường về an ninh - quốc phòng cho đất
nước.
Với tư cách là Bộ trưởng Công nghiệp (2002–2007) rồi Phó Thủ tướng phụ
trách kinh tế ngành (từ năm 2007 đến nay), Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước
Quy hoạch Điện VI (theo
Quyết định 1436/QĐ-TTg ngày 24/10/2007 của Thủ tướng CP) rồi Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia (theo
Quyết định 2449/QĐ-TTg
ngày 26/12/2011 của Thủ tướng CP) thì rõ ràng ngoài Thủ tướng, PTT
Hoàng Trung Hải là người phải chịu trách nhiệm cao nhất về thực trạng
nêu trên.
[ii]
Gần đây, dư luận trong và ngoài nước đang xôn xao về việc ông Phạm Hiện, lão thành cách mạng, tố cáo
PTT Hoàng Trung Hải khai man lý lịch,
che dấu nguồn gốc Hán của mình. Phần lớn nội dung mà ông Phạm Hiện thể
hiện trong đơn tố cáo của mình đều đã được nêu trong bức
Tâm Huyết Thư đề ngày 7/5/2007
của một số cán bộ, đảng viên thuộc Ban Tổ chức Trung ương, Uỷ ban Kiểm
tra Trung ương và Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ gửi Bộ Chính trị, Ban Bí
thư cùng các vị Bí thư Tỉnh/Thành uỷ, Bí thư Ban Cán sự Đảng các Bộ. Qua
những gì đã trình bày ở trên, người ta có quyền đặt câu hỏi là phải
chăng đấy chính là mấu chốt của vấn đề? Đây là câu hỏi mà ai cũng có thể
dễ dàng tự trả lời qua phản ứng của nhà chức trách, nhất là khi đã có
hai người công khai đứng ra chịu trách nhiệm trước pháp luật là ông
Nguyễn Bình Giang, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Bảo vệ Chính
trị Nội bộ, và ông Phạm Hiện, lão thành cách mạng.
Từ trước đến nay, những người gốc Hoa hầu như không có cơ hội mon men
đến những vị trí cơ yếu trong bộ máy chính quyền, những vị trí lãnh đạo
chủ chốt thì lại càng không bao giờ. Chính vì vậy, dư luận có quyền đặt
vấn đề là nếu ông Hoàng Trung Hải đúng là người Hán và ông ta đã khai
man lý lịch lý hòng dễ bề luồn sâu leo cao thì tại sao Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng vẫn bất chấp những hệ luỵ khôn lường cho sự an nguy của chế độ
và trên hết là cho sự tồn vong của dân tộc (như những lời đề đạt ruột
gan của các cán bộ, đảng viên thuộc Ban TCTW, Uỷ ban KTTW và Ban BVCTNB
trong bức Tâm Huyết Thư kia) khi nhất quyết đặt ông Hoàng Trung Hải vào
chiếc ghế quan trọng thứ hai trong Chính phủ (sau Thủ tướng)
[iii] suốt hai khoá liền?
Ghi chú:
[ii]
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến hiện trạng đáng
báo động của ngành điện lực của ViệtNam. Hy vọng là tác giả, với khả
năng hạn hẹp của mình, sẽ còn có dịp bàn đến việc ngài Thủ tướng cùng
cánh tay phải của ông là PTT Hoàng Trung Hải đã âm mưu đẩy nền kinh tế
Việt Nam ngày càng rơi vào vòng thòng lọng của Trung Quốc, kéo theo rất
nhiều hệ luỵ về chính trị - xã hội và an ninh - quốc phòng khác, như thế
nào.
a) Giúp Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực
công tác trong khối kinh tế ngành và phát triển sản xuất bao gồm: nông,
lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, thương mại - xuất nhập khẩu, xây dựng,
giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường.
- Chỉ đạo bảo đảm năng lượng và tiết kiệm năng lượng.
- Các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia và các dự án nhóm A có nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
- Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Phát triển các loại hình doanh nghiệp và kinh tế hợp tác, hợp tác xã.
- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và đầu tư ODA.
- Công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.
b) Giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Công Thương; Bộ
Xây dựng; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Bộ Tài nguyên và Môi trường.
c) Làm nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Trưởng
Ban Chỉ đạo Nhà nước các Dự án trọng điểm về dầu khí; Trưởng Ban Chỉ đạo
Tổ chức điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm; Trưởng Ban
Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu;
Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động
sản; Chủ tịch Hội đồng quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo các
lĩnh vực có liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng.
Ngày 25/3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 320/QĐ-TTg bổ
nhiệm PTT Hoàng Trung Hải làm Trưởng ban Ban Chỉ đạo Quy hoạch và Đầu
tư Xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội; ngày 12/9/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng ký quyết định số 1250/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước
các công trình, dự án trọng điểm ngành Giao thông vận tải, Trưởng ban
là Phó TT Hoàng Trung Hải; ngày 4/5/2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký
Quyết định số 580/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước Dự án
Điện Hạt nhân Ninh Thuận, Trưởng ban là PTT Hoàng Trung Hải; ngày
15/4/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 546/QĐ-TTg, bổ
nhiệm PTT Hoàng Trung Hải làm Chủ tịch Uỷ ban An ninh Hàng không Dân
dụng Quốc gia. Ngoài ra PTT Hoàng Trung Hải còn là Trưởng ban Ban chỉ
đạo Nhà nước Dự án Thuỷ điện Sơn La; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhà nước Xây
dựng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Xây dựng Nhà
Quốc hội; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhà nước về điều tra cơ bản tài nguyên -
môi trường biển; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quy hoạch điện VI,
v.v.