Lời mở đầu của tác giả Phạm Thắng Vũ:
Bạn đang ở đâu? Làm gì trong cái ngày 30-4-1975?
Có thể ngày đó là ngày chào đời của một em bé (mà giờ đây em bé đó đã
con cái đầy nhà), hoặc là lúc chấm dứt sinh mệnh của một con người như
trường hợp của Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Nguyễn Văn Long. Tất
nhiên người đó không thể ngồi kể cho chúng ta nghe về những giây
phút... lịch sử khi đấy nhưng bạn bè, thân nhân bên cạnh vẫn có thể kể
lại. Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ Việt Cộng khi hồi ức lại cái ngày lịch sử
này đã nói: " 30 tháng Tư năm 1975 có hàng triệu người vui thì cũng có
hàng triệu người buồn ". Bùi Tín, một cựu sĩ quan CS Bắc Việt trong Ủy
Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên (ICCS) đã chua chát: "... tự hổ thẹn từng
cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa 30-4, vớ vẩn,
lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết ".
Bài dưới đây là tâm tình của anh H, một người bà con trong họ đã kể cho nghe, PTV chép lại.
Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi đang ngồi trong căng tin của nhà máy
Hoá Chất Việt Trì thì tai nghe những tiếng la hét ầm ĩ vui nhộn từ
phòng thông tin của Công Đoàn nhà máy. " Thắng rồi... Ta thắng rồi...
Dương Văn Minh đầu hàng rồi... ", tôi bỏ dở cốc nước chè và cùng vài
người chạy vội ra xem chuyện gì. Một nhóm công nhân đang vây chung
quanh anh Minh, thư ký Công Đoàn cho biết tin vừa nhận được qua đài
Tiếng Nói Việt Nam là quân ta đã chiếm được Dinh Độc Lập, bắt Dương Văn
Minh phải tuyên bố đầu hàng. Nghe vậy, những tiếng hét lớn vui mừng một
lần nữa lại vang lên. Những ngày trước đây, kể từ sau trận đánh vào
Buôn Mê Thuột, Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh của nhà máy đã làm
một áp phích lớn vẽ bản đồ của 44 Tỉnh miền Nam Việt Nam Cộng Hòa và
dựng nó gần cổng ra vào. Trên tấm áp phích đó, cứ mỗi khi được tin quân
ta giải phóng thêm tỉnh nào thì lập tức tỉnh đó được vẽ một lá cờ Đỏ
sao Vàng ngay. Tôi đã thấy càng lúc càng nhiều lá cờ Đỏ sao Vàng xuất
hiện trên tấm áp phích chỉ trong một thời gian ngắn đến nỗi phải hoài
nghi, dù không nói ra mặt. Bây giờ, điều nghi ngờ đó đã thật rồi, mừng
quá đi. Thôi từ nay là hết chiến tranh và những thanh niên miền Bắc sẽ
không còn phải xuôi Nam chiến đấu trong chiến trường B nữa. Và điều
quan trọng tôi sẽ gặp lại người cha ruột đã xa cách gia đình tới 21 năm
rồi. Hôm đó, như để cùng chào mừng với niềm vui lớn của đất nước, trừ
những khâu cần phải vận hành máy chạy liên tục còn tất cả các khâu lao
động trong các phân xưởng và các phòng ban khác được ban lãnh đạo nhà
máy cho nghỉ việc sớm để mang tin vui về cho gia đình biết. Tôi phóng
nhanh xe đạp về nhà báo tin cho mẹ tôi biết ngay tin vui này.
Về đến nhà, dắt xe vào trong, chưa kịp khoe tin thì mẹ tôi đã nói: "
Sao nay con về sớm vậy? Bộ đội vào tới Sài Gòn rồi con biết chưa? ".
Tôi trả lời mẹ là đã biết, được nhà máy cho về sớm định kể mẹ nghe đây.
Mẹ tôi ngồi ở bàn sát cửa sổ như đang suy nghĩ điều gì. Tôi cởi áo đi
ra giếng nước sau nhà múc nước tắm sau đó quay trở vào mà vẫn thấy mẹ
tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bước lại bên bà, hỏi: " U sao vậy? " và đặt
tay tôi lên trán bà, tiếp: " U cảm hay sao nói cho con biết với ".
Nhưng bà nhìn tôi, miệng cười mỉm, trả lời:
- Không con. Mẹ khoẻ mà... có điều mẹ đang nghĩ về thầy con thôi. Không biết thầy con bây giờ trong đó đang như thể nào?
Nghe thế, tôi đi mở cái tủ gỗ gụ cũ, lục lọi rồi lấy ra tấm ảnh đen
trắng chụp chân dung cha tôi đã cũ, ố vàng. Quên nói, mẹ tôi thường gọi
cha tôi bằng thầy. Trong ảnh, một người đàn ông mặc bộ đồ trận rằn ri,
ánh mắt nghiêm nghị, đứng cạnh lề đường một khu nào đó trong thành phố
Sài Gòn của miền Nam. Tấm ảnh này là tấm duy nhất, gia đình nhận được
từ cha tôi, khi hai miền Nam-Bắc còn liên lạc được bằng thư từ.
Cha tôi, một chiến binh trong lực lượng Dù thuộc quân đội Liên Hiệp
Pháp. Những ngày cuối cuộc chiến năm 1954, đơn vị ông được máy bay thả
xuống tiếp sức cho căn cứ Điện Biên Phủ đang bị vây hãm để không lâu
sau đó, căn cứ nầy lọt vào tay bộ đội Việt Minh. May mắn thoát chết, bị
bắt làm tù binh rồi ông được trả tự do và theo đơn vị quay về Hà Nội.
Những ngày cuối của Hiệp Định Geneva, ông đã cho người về quê Sơn Tây
đón mẹ con tôi lên để cùng ông vào miền Nam nhưng chuyện không thành,
ông phải theo đơn vị vô Sai Gòn trước. Thực ra chuyến đi ra Hà Nội khi
đó, đoàn người làng có hai mẹ con tôi đã bị cán bộ Việt Minh lừa đưa
vào tạm trú trong khu rừng vắng. Khi đoàn người được phép ra khỏi rừng
thì thời hạn di cư đã qua, gia đình bị chia cắt từ đó lúc tôi mới được
gần một tuổi.
Hai mẹ con quay trở về Hà Nội sống trong gian nhà của ông ngoại tôi. Là
dân thành thị, mẹ tôi biết cắt may quần áo rất khéo và nhờ cái tài này
mà bà đã nuôi tôi ăn học. Tôi được nghe kể là các cán bộ đã tìm bà để
đặt may quần áo cho họ rồi khi các Hợp Tác Xã May Mặc giải thể, bà đã
tìm mua sở hữu thực thụ được một máy may cũ và nhờ vậy mà cuộc sống đỡ
vất vả so với nhiều người khác. Tuổi ấu thơ của tôi gắn liền với thành
phố Hà Nội từ những làn sương mờ buổi ban mai trên mặt Hồ Tây, mùi
không khí đường phố quyện với lá cây sau các cơn mưa rào. Những buổi
trưa mùa Hè, trốn mẹ đi chơi, tôi cùng chúng bạn kéo nhau lang thang
vào vườn bách thú, quanh bờ hồ hoặc trèo lên những cây bên vệ đường để
tìm bắt các chim non trong tổ. Có khi rình ném đá vào nhà hàng xóm buổi
nghỉ trưa để rồi cả bọn ù té chạy khi chủ gia mở cửa ra nhìn. Khi tuổi
lớn hơn, tôi mới nhận ra những khác biệt giữa mình và các bạn đồng
trang lứa mỗi lần nghe chuyện chiến tranh về miền Nam. Có những buổi
sinh hoạt chung mà người phụ trách không cho tôi tham dự. Lúc đó, tôi
cũng không hiểu tại sao? Có khi về hỏi mẹ thì bà chỉ nói: " Thôi con,
họ không cho thì về nhà với mẹ ". Rồi những năm chiến tranh lan ra miền
Bắc. Máy bay Mỹ ném bom nhiều nơi và ngay ở cả Hà Nội nữa. Những đợt
bom chùm tuốt từ trên mây rải xuống đã phá huỷ nhiều khu phố lớn. Cảnh
người chết mất xác trong các đống gạch vụn cùng lửa khói cháy nghi ngút
khiến ai cũng sợ. Đành phải kéo nhau đi sơ tán về các miền quê cho an
toàn. Hai mẹ con tôi về quê nội trong một làng ở tỉnh Sơn Tây cũ. Đây
là vùng bán sơn địa có ruộng có vườn cùng các núi đồi rất đẹp. Trong
làng có nhiều đứa thiếu niên trạc tuổi tôi và tôi rất muốn làm bạn cùng
chơi với chúng nhưng họ không thích tôi ra mặt. Trẻ em đã vậy mà người
lớn cũng nói xấu, dèm sau lưng mẹ tôi mỗi khi họ gặp mặt nhau trên
đường hoặc trong phiên chợ. Tôi đành kết bạn với mẹ thôi, không ai
khác.
Đến tuổi trưởng thành, thấy nhiều thanh niên xung phong vào bộ đội, tôi
cũng giơ tay xung phong nhưng bị cán bộ trong Ban Tuyển Quân từ chối.
Tuổi thanh niên, hình ảnh người lính với cây súng cuốn hút tôi lắm
nhưng họ không nhận thì đành chịu. Về kể lại cho mẹ tôi biết, bà chép
miệng nói làm sao họ cho con vào bộ đội được rồi trách khẽ: " Có mỗi
một mình mẹ mà con định bỏ đi sao! ". Tôi rất chật vật khi xin một việc
làm. Đơn gửi tận tay nhiều nơi mà không hề có chút hồi báo làm tôi
buồn. Không lẽ thân đã lớn lại cứ để mẹ phải nuôi mình mãi nhưng đi xin
việc không ra. Tôi có lúc nhủ thầm chắc số mình đến phải làm ruộng
nhưng ruộng, nhà cũng không có. May mắn làm sao, mẹ tôi tình cờ gặp lại
một người bạn học cũ với bà năm xưa khi còn trẻ. Người này nay là một
cán bộ cao cấp và nhờ sự giúp đỡ của ông ta, tôi đã vào làm việc trong
nhà máy Hoá Chất Việt Trì. Rồi cũng nhờ ông ta giúp mà tôi mới được
công đoàn nhà máy phân cho một phòng nhỏ trong khu tập thể. Tôi đưa mẹ
lên đó cùng sống chung.
Bộ đội mua hàng chợ trời vỉa hè ở miền Nam.
Hai tháng sau cái ngày chiến thắng, mẹ tôi về lại Hà Nội để dò hỏi tung
tích cha tôi. Trong họ hàng bên nội, có người vào miền Nam công tác và
qua đó đã tìm được các thân nhân theo các địa chỉ cũ năm xưa. Khi quay
trở lại miền Bắc, người bà con này gặp bà và cho biết các tin tức về
cha tôi. Theo đó, ông là một sĩ quan quân đội cao cấp của chính quyền
miền Nam và đã phải bị học tập cải tạo. Thêm một tin nữa, ông đã lập
gia đình khác và có được hai người con gái. Quay về nhà, mẹ tôi cho
biết tin và khi kể chuyện, không hiểu vì nghĩ đến việc học tập cải tạo
rồi liên tưởng những cảnh tù tội của cha tôi năm xưa lúc bị bắt làm tù
binh hay vì cám cảnh thân phận mà mẹ tôi khóc rất nhiều.
Tôi dỗ mẹ đừng khóc nhưng rồi tôi cũng khóc theo mẹ.
Mẹ tôi rất muốn đi vào miền Nam ngay để biết thêm các tin tức về cha
tôi nhưng khi đó giao thông hai miền còn khó khăn lắm, vẫn còn hạn chế
chỉ ưu tiên cho những cán bộ đi công tác. Đường xuyên Việt nhiều nơi
phải sửa chữa và đường sắt nhiều vùng đã mất hẳn từ lâu. Chiến tranh
bao năm trời đâu phải một sớm một chiều thông đường ngay được. Cơn háo
hức vào miền Nam để tìm gặp cha tôi cùng gia đình riêng của ông cũng
dần nguôi ngoai trong lòng mẹ tôi. Tôi vẫn tiếp tục đi làm, cũng không
hề nghĩ là có ngày mình đặt chân vào miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đó
là nhà máy Hoá Chất Việt Trì tổ chức một cuộc họp lớn có sự tham dự của
cán bộ Tổng Cục Hóa Chất từ trung ương về chủ trì. Theo đó, nhà nước
cần khá đông cán bộ và công nhân viên trong ngành xung phong vào tiếp
quản các nhà máy hóa chất ở miền Nam. Tin về một xã hội miền Nam đói
nghèo, lạc hậu do chính miệng những bộ đội miền Bắc từ chiến trường
miền Nam trở về phục viên kể lại trong các tháng trước đã làm con số
người xung phong chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng sợ khổ, sợ
phải xa gia đình để đến công tác trong vùng đất đói nghèo đến nỗi cả
bát ăn cơm cũng còn thiếu. Không ai chịu tình nguyện xung phong nên
lãnh đạo nhà máy phải họp và xét hoàn cảnh riêng từng người một để chỉ
định bắt buộc. Tên tôi đã được họ chọn, đành phải chuẩn bị hành lý để
theo đoàn vào Nam dù tôi không muốn.
Đường sắt vẫn chưa sửa xong, chúng tôi 18 người ngồi nằm chung với hành
lý trong chiếc xe tải Molotova cũ kỹ của đoàn xe vào miền Nam. Trên xe
tuy mệt nhưng có cái thú ngồi ngắm cảnh hai bên dọc đường. Chúng tôi
qua nhiều vùng, địa danh trước giờ chỉ nghe tên trên báo trên đài. Hố
bom, cầu sập, đường bị bóc từng tảng nhựa, các khu dân cư, chợ... xuất
hiện đây đó dọc theo các đoạn đường xe qua. Ở các vùng xa thủ đô, người
dân lam lũ, nghèo khổ, thiếu thốn lộ rõ trên ánh mắt, quần áo và khung
cảnh sống. Miền Bắc quê hương xã hội chủ nghĩa còn như vậy thì miền Nam
bị kềm kẹp chắc chắn phải nghèo, thiếu thốn ghê gớm. Tất cả cũng do
chiến tranh, do đế quốc Mỹ reo rắc mà ra... , người đi chung trên xe
kết luận.
Một khu phố ở thủ đô Hà Nội trong dịp bán hàng tiêu chuẩn Tết.
Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh
mới. Một khung cảnh khác lạ với miền Bắc. Nhà cửa, người dân cùng các
công trình đô thị như cầu, đường... gần các trục lộ giao thông trông
đẹp và văn minh hơn hẳn. Đi rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn
xe đến được khu công nghiệp Biên Hoà. Có quá nhiều nhà máy tại đây.
Đoàn 18 người chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy trong khu
vực này và tuy không ai nói với ai nhưng đều trầm trồ trước nền công
nghiệp miền Nam. Rồi chúng tôi được phân công vào công tác trong một
nhà máy có cái tên VICACO. Một nhà máy sản xuất chất Sút (NaOH) từ muối
biển và cả Acid Chlohidric (HCL) nữa. Một nhà máy bề ngoài trông rất
nhỏ mà không ngờ bên trong lại lắp đặt các máy móc tối tân, sản xuất
được các hóa chất với sản lượng, hàm lượng độ tinh khiết rất cao gấp
nhiều lần so với cùng công nghệ tại miền Bắc. Chúng tôi ngạc nhiên và
ngầm thán phục trong bụng. Nhìn những công nhân miền Nam đang lao động
tại đây rồi sau đó làm việc chung với họ, tôi mới thấy người dân miền
Nam khác xa người dân miền Bắc. Kiến thức chuyên môn và xã hội của họ
hơn hẳn chúng tôi. Kỹ sư hơn hẳn kỹ sư, chuyên viên hơn hẳn chuyên viên
của miền Bắc gửi vào và ngay cả lực lượng công nhân cũng vậy. Một sự
rụt rè, cẩn thận từ lời ăn tiếng nói tự nhiên nẩy sinh trong đoàn tiếp
quản chúng tôi. Ai cũng sợ người trong nhà máy VICACO này biết trình độ
thực sự của cả đám. Sợ họ cười, nỗi lo chính trong lòng vì dầu gì mình
cũng thuộc phía người chiến thắng. Về nằm nghỉ trong dãy phòng mà được
biết trước đây là chỗ dành cho công nhân ngủ qua đêm nếu phải ở lại
tăng ca, tôi suy nghĩ xã hội miền Nam không hề lạc hậu về công nghệ về
con người... như lời nói trước giờ vẫn được nghe. Ngay cả trong buổi
họp khi chọn người vào tiếp quản, cán bộ ngành Hóa từ trung ương cũng
đã khẳng định như vậy khi động viên cán bộ công nhân viên tình nguyện.
Những căn phòng nghỉ nào cũng đầy đủ tiện nghi từ các trang bị như bàn
ghế, giường ngủ, quạt trần nhà, phòng vệ sinh, đèn chiếu... Ở đây,
trong chỗ khép kín của khu công nghệ còn được như vậy thì trong thành
phố Sài gòn chắc chắn phải rất đẹp. Tôi cũng chưa nghĩ mình sẽ ra sao
khi tìm gặp được hai cô em gái tôi, thật khó tưởng tượng.
Rồi một ngày tôi theo đoàn vào làm các thủ tục công tác trong một toà
nhà mà Tổng Cục Hoá Chất vừa tiếp quản nay trở thành trụ sở của Công Ty
Hóa Chất Cơ Bản miền Nam mới thành lập nằm gần chợ Bến Thành. Lần đầu
tiên trong đời tôi biết đến thang máy khi lên một phòng tuốt trên tầng
thượng. Khi làm xong các giấy tờ và thủ tục tạm trú, chúng tôi được
phép thoải mái đi thăm phố xá sau lời căn dặn của một thủ trưởng: " Các
đồng chí phải bình tĩnh trước mọi tình huống, luôn nhớ chúng ta là kẻ
chiến thắng, phải đánh giá chính xác những gì trông thấy ở xã hội miền
Nam ". Ngay từ lúc còn ngồi trên xe buýt, nhìn cảnh vật dọc theo đường
và khu phố dẫn vào Sài Gòn tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ
đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức,
sinh hoạt của người dân miền Nam. Giờ đây đi bộ trên các con đường
trong khu trung tâm thành phố mới thấy bản thân tôi, một người dân miền
Bắc quá sức lạc hậu, nghèo nàn... từ bộ cánh (quần áo) trên người cùng
vẻ luống cuống như dân quê lần đầu ra tỉnh. Tôi rõ ràng xa lạ với các
tiện nghi đang được người dân trong thành phố này sử dụng. Bên vệ đường
và trong các cửa hiệu sang trọng đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới lạ lần
đầu chúng tôi được thấy. Ai có tiền cứ việc vào mua thoải mái khác hẳn
với cảnh chen chúc để chờ được tới lượt mua số hàng ít ỏi như cảnh
thường thấy ở các khu phố ngoài miền Bắc. Phố xá thì thôi, những tòa
nhà to đẹp thấp thoáng sau dòng xe gắn máy chạy hối hả trên đường.
Khung cảnh y như ở nước ngoài, một người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ
cho nhau cùng nghe. Tôi bối rối ngắm nhìn các cô gái miền Nam nói chính
xác là cô gái Sài Gòn đang dạo bước trên đường. Họ đẹp quá sức, như
tiên... từ dáng điệu, mái tóc, y phục mặc trên người và nhất là khuôn
mặt của họ lộ rõ vẻ sung túc đài các so với những nữ cán bộ trẻ trong
đoàn chúng tôi. Tôi mỉm cười, nghĩ thầm hai cô em gái tôi trong này
cũng vậy. Tôi âm thầm tách ra khỏi đoàn để tự mình đi theo ý muốn. Rảo
qua nhiều con phố Sài Gòn rồi thấy mỏi chân, tôi lấy can đảm bước vào
một hàng nước thật đẹp gần một giao lộ lớn, có tên là Cafe Minirex.
Chọn một bàn sát khung cửa kính trong suốt có thể nhìn rõ người đi bên
ngoài, tôi quan sát chung quanh. Bàn ghế, các bình hoa, quầy thu ngân,
khách cùng vách tường trang trí cảnh một rừng cây thật đẹp... thật
không khác một tiệm ở nước ngoài trong phim ảnh. Chợt một người hầu bàn
bước đến, gật đầu chào tôi rồi niềm nở hỏi:
- Thưa ông, ông dùng chi?
Trời ơi! Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật
khác hẳn với cung cách của mậu dịch viên trong các tiệm ăn ngoài miền
Bắc. Tôi lại nghĩ, hay ông ta biết tôi là cán bộ chế độ mới qua quần áo
mặc trên người nên xưng hô như vậy? Tôi gọi nước uống và ngầm để ý xem
sao. Nhưng không, bất cứ có khách nào vào quán, người hầu bàn này cũng
một cách tiếp đón như vậy. Rất tự nhiên, lịch sự mà không khúm núm hoặc
hách dịch.
Một đường phố trong Sài Gòn.
Một thay đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với
bất kỳ người nào từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam
ở thời kỳ đó. Sài Gòn hay nói rộng ra cả miền Nam của chế độ Việt Nam
Cộng Hòa không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy
cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay
bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội... mô tả về con người và xã hội của
chế độ Ngụy quyền-tay sai đế quốc Mỹ. Đây là mô hình của một xã hội văn
minh và người Việt nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn
sống ở xã hội xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc. Một xã hội như vậy lại vừa
bị người bên phía chúng tôi cướp mất đi. Tiếc thay!
Phạm Thắng Vũ
May 01, 2010.
(Viết để nhớ lại ngày 30-4-1975.)