Thứ Năm, 2024-03-28, 5:47 PM
Welcome Guest | RSS

Dân Chủ Cho Việt Nam

Main » 2010 » Tháng Tư » 1 » Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
8:44 PM
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Việt Long & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2010-03-31

Sản lượng kinh tế Việt Nam tăng gần 6% trong quý một 2010, gần gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng vật giá lại có thể vượt 12% trong vòng ba tháng tới, báo hiệu nguy cơ lạm phát.

Photo courtesy of PhuMyHung

Khu đô thị Nam Sài Gòn.

Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về nghịch lý đó qua phần trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện.

Nguy cơ lạm phát

Việt Long: Hôm Thứ Ba ngày 30, Cục Thống kê của Hà Nội vừa công bố dữ kiện sơ khởi về tình hình kinh tế Việt Nam trong quý một, tức là ba tháng đầu của năm 2010. Dư luận chú ý nhất đến đà tăng trưởng đã lên tới 5,83%, tức là tăng gần 90% so với đà tăng trưởng 3,14% vào quý một của năm ngoái. Đây là một tin đáng mừng trong bối cảnh sản xuất còn èo uột của toàn khu vực châu Á .

Thống kê thu thập được của quý một có thể khiến chúng ta hơi lạc quan, không vì tốc độ tăng trưởng mà vì nội dung của đà tăng trưởng đó. Nhưng nguy cơ lạm phát mới là một mối lo.

Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa

Nhưng tuần qua, người ta cũng không khỏi quan tâm về mức độ lạm phát quá cao của Việt Nam. Như trong tháng Ba, vật giá đã tăng 0,75% và so với năm ngoái thì đã tăng 9,46%. Liệu đà sản xuất mạnh hơn có thể đẩy lui được nguy cơ lạm phát hay không là câu hỏi khiến nhiều người thắc mắc. Ông nhận định ra sao về chuyện này?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Thống kê thu thập được của quý một có thể khiến chúng ta hơi lạc quan, không vì tốc độ tăng trưởng mà vì nội dung của đà tăng trưởng đó. Nhưng nguy cơ lạm phát mới là một mối lo chính đáng mà người ta cần quan tâm vì sẽ ảnh hưởng đến đời sống của đa số người dân. Ngoài ra, ta cần thấy là nhiều thất quân bình vĩ mô thì vẫn còn nguyên vẹn.

Việt Long: Mời ông bắt đầu từ đà tăng trưởng sản xuất và về nội dung của đà tăng trưởng đó.

Nguyễn Xuân Nghĩa: Trước hết, trong toàn khu vực Á Châu, tình hình kinh tế thật ra đã khả quan hơn so với năm ngoái nên nhiều quốc gia đã lần lượt nâng lãi suất và ra khỏi kế hoạch kích thích đã ban hành từ cuối năm 2008. Thứ hai, từ đầu năm nay, giới chức Việt Nam đã dự báo đà tăng trưởng khoảng 6% cho quý một. Nay đạt được 5,83% thì dù thấp hơn dự đoán cũng vẫn là điều đáng mừng. Đáng mừng hơn cả là lực đẩy của đà tăng trưởng ấy lại nằm trong thị trường nội địa thay vì nhờ xuất khẩu. Đáng chú ý nhất là yếu tố đóng góp của khu vực xây cất, tăng được hơn 7%, hoặc khách sạn và dịch vụ, tăng được gần 9%.

Tiền đồng Việt Nam. AFP PHOTO.
Tiền đồng Việt Nam. AFP PHOTO.
Trong điều kiện còn khó khăn chung của các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới như Hoa Kỳ và Âu Châu thì lực đẩy nội địa ấy là đáng mừng, nhất là cho công ăn việc làm của dân chúng. Nói vắn tắt thì từ nhiều năm nay, diễn đàn này của chúng ta đã từng cảnh báo rằng Việt Nam cần chú trọng nhiều hơn đến thị trường nội địa thay vì ràng số phận kinh tế vào việc xuất cảng ra ngoài. Chúng ta càng nên nhìn ra điều ấy vì thế giới sẽ có nhiều thay đổi sau trận tổng suy trầm vửa qua, mà ta sẽ đề cập tới vào cuối chương trình này.

Việt Long: Bên cạnh những chỉ dấu thay đổi lạc quan hơn so với năm ngoái đó thì còn những mối lo kia, như lạm phát hay thất quân bình vĩ mô có ý nghĩa thế nào?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Khi bộ máy sản xuất chạy mạnh hơn thì ta lại phải lo ngại hiện tượng nóng máy và nguy cơ lạm phát. Tại Việt Nam, hiện tượng ấy dễ xảy ra vì kế hoạch kích thích kinh tế đặt trọng tâm vào tín dụng qua biện pháp hạ lãi suất để bơm thêm tiền vào kinh tế. Lượng tín dụng gia tăng ồ ạt, tới gần 40% suốt năm ngoái, càng có thể hâm nóng bộ máy sản xuất. Dù Ngân hàng Nhà nước của Việt Nam đã nâng lãi suất từ đầu tháng 12 và bỏ chế độ lãi suất trần cho loại tín dụng trung và dài hạn, tình hình vẫn rất đáng quan tâm và canh chừng. Tôi thiển nghĩ là chỉ tiêu hạn chế đà gia tăng tín dụng ở mức 25% sẽ khó đạt và có khi còn chứng kiến nạn bể bóng đầu tư cổ phiếu.

Việt Long: Tại sao?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Lý do thứ nhất là Việt Nam bị rơi vào vòng luẩn quẩn với chế độ ngoại hối ấn định quá cao và cứng ngắc nên phải liên tục phá giá hai lần nội trong hai tháng 11 và tháng Giêng. Càng phá giá là càng khiến tiền rẻ hơn và hàng họ đắt hơn, tức là càng dễ gây lạm phát.  Thứ hai, trong cơ cấu giá cả thì giá lương thực và nhất là nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu cũng tăng với tỷ lệ quá cao, đã vượt 10% trong tháng Ba so với tháng Ba năm ngoài, nên càng dễ đưa tới lạm phát về phí tổn. Thứ ba, lãnh đạo Việt Nam đang muốn gây tâm lý hồ hởi phấn khởi để chuẩn bị Đại hội đảng cho nên vừa tăng lương cho đảng viên cán bộ vừa tạo ra ấn tượng tiền rẻ cho dân chúng vui vẻ mua xắm. Yếu tố ấy dễ thổi bùng lạm phát.

Kết cuộc thì lãnh đạo kinh tế có thể quan ngại đến tình hình vật giá, nhưng lãnh đạo chính trị ở trên lại muốn toàn quốc có không khí lạc quan của ngày hội lớn mà không chú ý đến cái giá mà người dân sẽ phải trả sau này. Vì thế, từ nay đến cuối năm thì lạm phát càng dễ tăng. Nói chung, cả khu vực Á Châu đều quan tâm đến nguy cơ lạm phát và chuẩn bị đạp thắng để kinh tế khỏi nóng máy, nhưng Việt Nam dễ bị nặng nhất vì những vấn đề riêng của mình.

Lệ thuộc nguyên liệu nhập khẩu

Vì theo đuổi chiến lược đi làm gia công để xuất khẩu, Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào nguyên nhiên vật liệu nhập từ bên ngoài.

Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa

Việt Long: Chúng ta bước qua vấn đề vĩ mô. Ông nói đến thất quân bình trong cơ cấu vĩ mô, những thất quân bình ấy là gì?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Vì theo đuổi chiến lược đi làm gia công để xuất khẩu, Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào nguyên nhiên vật liệu nhập từ bên ngoài mà giá cả các nhập lượng này đang trên đà gia tăng, thí dụ như bông vải cho ngành dệt sợi, hoặc linh kiện điện toán cho công nghiệp chế biến để tái xuất khẩu. Vì vậy, Việt Nam dễ nhập khẩu đà gia tăng của vật giá của xứ khác. Đây là ta chưa nói đến xăng dầu, thép hay phân bón cho thị trường nội địa. Trong khi ấy, xuất khẩu vẫn chưa khởi sắc và nhập khẩu vẫn tăng mạnh nên xứ này bị nhập siêu nặng. Trong tháng Ba vừa qua thì bị thiếu hụt thương mại mất một tỷ 330 triệu đô la, điều ấy càng gây sức ép cho chế độ ngoại hối vì bào mỏng số dự trữ ngoại tệ của Việt Nam.

Trong hoàn cảnh Việt Nam cần tới đầu tư từ nước ngoài để có ngoại tệ và đẩy mạnh sản xuất sau này thì nguồn đầu tư ấy cũng lại tạo ra sức hút rất mạnh về nhập khẩu để tái xuất khẩu và gây thêm khiếm hụt ngoại thương. Yêu cầu giảm thiểu số thiếu hụt ấy khiến Việt Nam muốn duy trì tỷ giá thấp của đồng bạc thì càng khó vét đô la trên thị trường. Và trị giá bấp bênh của đồng bạc càng khiến các thị trường tài chính thế giới mất niềm tin và hậu quả là công khố phiếu Việt Nam mất giá trị, sẽ chỉ có thể huy động bằng phân lời cao hơn là mâu thuẫn chúng ta đã đề cập tới trong chương trình ngày 17, khi công ty Fitch hạ thấp cấp độ của trái phiếu Việt Nam.

Việt Long: Đó là một lẽ khi nói đến những mâu thuẫn trong chế độ quản lý vĩ mô. Ông còn thấy có vấn đề gì khác đáng quan tâm không?

Sản xuất vẫn lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu ngoại nhập. Photo courtesy of sbsc.com.vn
Sản xuất vẫn lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu ngoại nhập. Photo courtesy of sbsc.com.vn
Nguyễn Xuân Nghĩa: Chúng ta đang ở trong một giai đoạn chuyển tiếp hay quá độ từ nạn suy trầm qua chu kỳ hồi phục, cho nên Việt Nam có thể bị lúng túng trong chính sách vĩ mô và bị kẹt giữa hai nguy cơ là ngoại hối và lạm phát. Trong điều kiện ấy, yêu cầu chính trị của lãnh đạo cho Đại hội đảng sẽ gây sức ép cho giới lãnh đạo kinh tế trong bộ máy nhà nước. Ban hành biện pháp kiểm soát vật giá và tăng lương công chức là những đòi hỏi dễ gây thêm bội chi ngân sách và càng thu hẹp khả năng xoay trở của chính phủ.

Thứ hai nữa, cũng vì yêu cầu chính trị, lãnh đạo của Việt Nam duy trì chính sách nâng đỡ khu vực quốc doanh kém hiệu năng và đầy tốn kém. Doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tổng công ty, là những thế lực kinh tế trong xã hội và thế lực chính trị bên trong đảng. Chúng có sức đóng góp rất thấp về kinh tế và xã hội nhưng lại làm lệch lạc chính sách kinh tế vĩ mô của toàn dân. Chúng gieo họa cho thị trường vì nạn bong bóng đầu cơ và cho xã hội vì nạn bất công và tham nhũng. Việt Nam chưa thể thoát khỏi tàn dư của một cơ chế lỗi thời và khu vực nhà nước mà còn giữ vai trò chủ đạo thì thất quân bình vĩ mô sẽ còn kéo dài. Đó là hiện tượng "quít làm cam chịu" vì đa số sẽ chịu nhiều thiệt hại để bảo vệ quyền lợi cho một thiểu số. Việc tổ chức Đại hội đảng và việc phân bố quyền lợi ở bên trong sẽ chỉ đẩy mạnh thêm hiện tượng đáng tiếc ấy.

Kinh tế thị trường?

Chế độ ngoại hối ấn định quá cao và cứng ngắc nên phải liên tục phá giá hai lần nội trong hai tháng 11 và tháng Giêng. Càng phá giá là càng khiến tiền rẻ hơn và hàng họ đắt hơn, tức là càng dễ gây lạm phát.

Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa

Việt Long: Ông nhắc tới Đại hội đảng vào năm tới và ảnh hưởng của khóa họp này tới sinh hoạt kinh tế của toàn dân qua chính sách kinh tế của nhà nước, thì trong diễn văn tổng kết hội nghị  trung ương đảng mới đây Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhắc đi nhắc lại chính sách kinh tế của Việt Nam là kinh tế thị trường theo định huớng Xã Hội Chủ Nghĩa. Ông Mạnh có nói thoáng qua về nhân sự là sẽ sử dụng những nhân sự có tư duy đổi mới, nhưng ngay sau đó lại nhấn mạnh về nền kinh tế định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa cho Việt Nam.  Phải chăng nhân sự với tư duy đổi mới là để cố kéo theo chùm Xã Hội Chủ Nghĩa cổ lỗ đằng sau nên kinh tế thị trường? Ông có ý kiến thế nào, và ông cho rằng trong một giả thuyết lý tưởng thì lãnh đạo chính trị của Việt Nam nên lấy những quyết định kinh tế như thế nào cho quyền lợi của đại đa số dân chúng?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Lý tưởng thì tất nhiên là chuyện xa vời và càng khó thấy cho đảng Cộng sản Việt Nam vì người ta ưu tiên nghĩ tới vị trí trong một đảng độc quyền hơn là nghĩ tới quyền lợi của người dân. Dù sao thì mình vẫn có thể nghĩ đến những gì người dân mong ước, một cách chính đáng.

Thứ nhất, sau hai chục năm đổi mới vì sự phá sản hiển nhiên của chế độ bao cấp, Việt Nam nên nghĩ lại về vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Đấy là một khu vực xương sống quằn quẹo đang kềm hãm sức bật của người dân và gây ra nạn bè phái, tham nhũng và nhất là làm lệch lạc các quyết định kinh tế của bộ máy nhà nước, vốn dĩ cũng chỉ là một biểu hiện của quyền lực đảng. Có khi đang trở thành công cụ của các tổng công ty. Một thống đốc ngân hàng nhà nước hoặc ủy viên thường vụ trong Quốc hội chưa chắc đã có quyền thế bằng một đại gia trong các tổng công ty này.

Sản xuất vẫn lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu ngoại nhập. AFP Photo.
Sản xuất vẫn lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu ngoại nhập. AFP Photo.
Thứ hai, nếu vượt qua được những tính toán về nhân sự là ai đi ai ở và sẽ ngồi ở đâu, người ta cần nghĩ tới những thay đổi trong tư duy về chiến lược và chính sách. Về chiến lược thì nên nghĩ đến yêu cầu quân bình giữa thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, tức là phải nâng đỡ tư doanh trong thị trường nội địa và khai thông ách tắc để phát triển các vùng nghèo đói bên trong, nhất là ưu tiên chăm lo cho nông gia và giới bần cùng trong xã hội thay vì chú ý tới quyền lợi của các đại gia ở thành phố. Về chính sách thì nên thảo luận về những biện pháp nâng cao khả năng sản xuất và tiêu thụ ở bên trong thay vì tiếp tục khuyến khích cả nước đi làm gia công để xuất khẩu và giàng số phận vào những thăng trầm quốc tế hay sự trưng thu của các cơ sở tiếp cận với thị trường xuất khẩu.

Nói chung, sau vụ tổng suy trầm vừa qua, cả thế giới đang chuyển qua một chu kỳ điều chỉnh. Các quốc gia xưa nay vẫn nhập khẩu mạnh, trước tiên là Hoa Kỳ, nay đều muốn đẩy mạnh xuất cảng và hạn chế nhập cảng nên mâu thuẫn về mậu dịch rất dễ xảy ra. Vì thế, chiều hướng nhập siêu của Việt Nam sẽ chỉ có tăng chứ không giảm vì sẽ khó xuất khẩu hơn và bị ép phải nhập khẩu nhiều hơn. Trong khung cảnh ấy, lãnh đạo Việt Nam nên nhân cơ hội đẩy mạnh việc cải tổ theo hướng ngược lại những gì tưởng là sáng suốt trong suốt thập niên vừa qua. Nếu không, vấn đề sẽ không chỉ là nạn lạm phát.

Nói về những gì tưởng là sáng suốt là nhắc đến khái niệm "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" như ông vừa hỏi. Tôi cho rằng lãnh đạo Việt Nam đã lúng túng rất lâu, từ năm 1987 đến 1997, trước khi có thể tạm định nghĩa thế nào là "định hướng xã hội chủ nghĩa" mà rốt cuộc thì vẫn là trở lại chủ đích bảo vệ quyền lợi cho thiểu số. Bản thân tôi thì nếu muốn nói đến "định hướng xã hội chủ nghĩa", người ta phải ưu tiên chăm lo cho đời sống của đại đa số dân chúng vốn dĩ còn nghèo, thay vì tập trung bảo vệ quyền lợi của một thiểu số có chức trong hệ thống chính trị và có quyền trong đời sống kinh tế.

Việt Long: Xin cám ơn Ông.

Category: Kinh tế | Views: 768 | Added by: danchu | Rating: 0.0/0
Total comments: 0
Only registered users can add comments.
[ Registration | Login ]
Login form
Search
Calendar
Our poll
Đánh giá
Total of answers: 887
Site friends
Statistics

Đang online: 1
Khách: 1
Thành Viên: 0