Ts. Nguyễn Đình Thắng
Trong 35 năm qua, nỗi trăn trở
của nhiều người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngoại là sớm đem nền
dân chủ đến cho Việt Nam. Nỗi trăn trở này sẽ tăng triển vọng thành tựu
nếu như có một sách lược chung để mỗi người, mỗi nhóm với sở nguyện và
vai trò riêng vẫn góp phần cho việc chung.
Theo tôi, sách lược chung này phải bao gồm những chủ điểm sau:
(1) Vun bồi nền móng cho xã hội dân sự ở Việt Nam;
(2) Tập trung nhân, tài, vật lực vào một số trọng tâm trung hạn có tác động vĩ mô; và
(3) Phát triển hậu phương: cộng đồng Việt ở hải ngoại.
Thời gian ước lượng để thực hiện sách lược này là 10 năm.
(1) Xây Dựng Xã Hội Dân Sự
Thay đổi chế độ không nhất thiết đem
lại dân chủ, nếu như không có sẵn nền móng vững chắc cho dân chủ. Nền
móng ấy chính là xã hội dân sự, nơi mà người dân tự tập hợp để đáp ứng
nhu cầu và nguyện vọng của chính mình, góp phần phát triển xã hội, và
ảnh hưởng chính sách quốc gia. Muốn có dân chủ thì ngay bây giờ phải
vun bồi cho một xã hội dân sự tương lai.
Sự vun bồi ấy có ba trọng điểm: đào tạo nhân sự, nới rộng không gian
hoạt động, và thiết lập tập quán sinh hoạt chân chính và trong sáng
trong xã hội.
Muốn có xã hội dân sự thì trước hết phải có những người có khả năng
thành lập và điều hành một tổ chức cũng như có kinh nghiệm đối tác và
hợp tác giữa các tổ chức. Về điểm này người mình có rất nhiều điều cần
học hỏi nơi những người bạn Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Cambốt, v.v.
Chúng ta phải tạo những cơ hội học hỏi đó.
Các nhân sự này cần môi trường để phát huy tác dụng. Muốn vậy, chúng
ta cần thúc đẩy, bằng nhiều cách thức khác nhau, những thay đổi chính
sách ở trong nước để ngày càng mở rộng vòng đai an toàn cho những người
hoạt động. Vòng đai này trong ba năm qua đã bị thu ngày càng nhỏ. Nếu
không có khoảng không gian thao tác, thì nhân sự dù có khả năng và kinh
nghiệm cũng đành bó tay.
Sự chân chính và trong sáng là yếu tố cần thiết để xây dựng xã hội
dân sự vì niềm tin giữa con người với nhau chính là chất keo sơn gắn bó
cá nhân và giúp các tổ chức hợp tác với nhau một cách lâu bền. Cộng
đồng người Việt ở hải ngoại có nhiều lợi thế để thúc đẩy và phát huy
tập quán ấy cho xã hội Việt Nam, nhưng đến giờ vẫn chưa quan tâm đủ về
việc này.
(2) Tập Trung và Tác Động Vĩ Mô
Thiếu tầm nhìn chiến lược thì chúng ta dễ rơi vào trạng thái đa đoan
nên thiếu tập trung, phản ứng nên thiếu chủ động. Hậu quả là mỗi khi có
biến động, dù mang tính cách chính trị hay nhân đạo, thì mọi người dồn
nhau đối phó, từ biến động này sang biến động khác cho đến sức cùng lực
kiệt. Chính vì thế mà phần lớn công sức
của chúng ta, nhìn chung, đã chỉ là những nỗ lực rời rạc, ngắn hạn, và
hời hợt-chưa kịp có kết quả, chúng ta đã vội chuyển sang việc mới. Để
thay đổi tình trạng này, sách lược chung cho cộng đồng cần đề ra một số
trọng tâm đường dài.
Các trọng tâm này phải mang một đặc
tính chung: thành quả tích luỹ phải tạo ảnh hưởng ở tầm vĩ mô, nghĩa là
tạo nên những thay đổi về hệ thống. Bằng không thì chúng ta chỉ đối phó
với hậu quả, xoa dịu triệu chứng. Ví dụ, dùng tiền hải ngoại để đối phó
với các vấn nạn xã hội trong nước thì giống như lấy gáo múc nước mà
chữa đám cháy lớn. Còn như dùng cũng đồng tiền ấy để đặt điều kiện bất
khả tương nhượng về nguyên tắc chân chính và trong sáng trong việc tiếp
thu và sử dụng nó thì sẽ có tác động vĩ mô; thay đổi cung cách hành sử
của người ở trong nước. Hoặc hay hơn, chúng ta có thể dùng đồng tiền đó
để vận động nới rộng hoạt động từ thiện và xã hội cho các cơ sở tôn
giáo, tạo điều kiện để người dân trong nước dùng nội lực để tự giải
quyết những nhu cầu của chính họ và giảm dần lệ thuộc vào hải ngoại.
Dưới đây là bốn trọng tâm trung hạn có tác động vĩ mô mà tôi đề nghị cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại trong 3 năm tới.
a) Phát triển tự do tôn giáo:
Các tổ chức giáo hội chính là nhũng hạt mầm của xã hội dân sự sau này.
Một mặt, nhân sự của các giáo hội cần được trau luyện về kỹ năng lãnh
đạo, quản trị, vận động, và tổ chức đễ họ có thễ thực hiện hữu hiệu hơn
những công tác có sẵn. Mặt khác, quyền tự do hoạt động tôn giáo cần
được từng bước nới rộng vào các lãnh vực cứu tế, xã hội, giáo dục, y
tế, truyền thông… Muốn vậy, chúng ta cần tận khai thác thế tựa là các
công ước về nhân quyền, dân quyền, và luật Hoa Kỳ về tự do tôn giao
quốc tế.
b) Bảo vệ người lao động ngoài nước: Hàng
trăm ngàn công nhân Việt đang lao động ở ngoại quốc cần được trang bị
kiến thức về quyền, về luật, về hệ thống công đoàn ở quốc gia sở tại.
Họ cần đuợc trang bị kỹ năng tập hợp, kết hợp, kết nối, điều đình,
thông tin, tự cứu, Đồng thời, chúng ta cần cung cấp cho họ những trợ
giúp về pháp lý để tự bảo vệ quyền và lợi ích, Như vậy, trong thời gian
3 năm lao động ở ngoài nước, các công nhân sẽ học hỏi được thêm nhiều
kiến thức và kỹ năng để thăng tiến bản thân và sau này góp phần vào
việc xây dựng xã hội dân sự. Để nới rộng không gian hoạt động của họ,
chúng ta có thể tận khai thác luật quốc tế, luật Hoa Kỳ cũng như luật
của ngày càng nhiều quốc gia về chống buôn người.
c) Nối kết nhân sự và tổ chức: Cách
tốt nhất để phát huy kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm sinh hoạt xã hội
dân sự là thực tập với những người và tổ chức đã rành rẽ. Những người
và tổ chức như vậy không hiếm. Trong các quốc gia láng giềng với Việt
Nam hiện có hàng trăm tổ chức xã hội dân sự lãnh đạo bởi hàng ngàn
người đầy kinh nghiệm. Chúng ta cần nối kết các nhân sự và tổ chức Việt
Nam với các tổ chức xã hội dân sự trong vùng để qua đó có thể học hỏi
và sau này có thể hợp tác. Sự kết hợp ngày càng rộng này cũng sẽ có tác
động nới rộng khoảng không gian an toàn cho các nhân sự và tổ chức Việt
Nam ở trong nước.
d) Bảo vệ cho những nhân sự gặp nguy nan:
Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, dù hoạt động ôn hoà nhằm xây dựng
một tương lai chung cho dân tộc vẫn có thể bị nguy nan. Những người dấn
thân chấp nhận nguy nan cần được bảo vệ. Sự bảo vệ tốt nhất là tránh
không lôi kéo họ vào những hoạt động của các đảng phái chính trị nhằm
giữ cho họ thế đứng độc lập–điều này đòi hỏi các đảng chính trị đặt
quyền lợi lâu dài của cả dân tộc trên quyền lợi ngắn hạn của riêng
mình. Khi một nhân sự đã lâm vào nguy nan thì chúng ta phải can thiệp
để họ được an toàn nhờ sự theo dõi của quốc tế, và nếu cần, qua con
đường tị nạn trực tiếp từ Việt Nam hay sau khi họ đã vượt thoát sang
một quốc gia láng giềng. Không những vậy chúng ta cần tạo điều kiện để
khi họ không còn ở Việt Nam thì vẫn có cơ hội tiếp tục hoạt động.
Có rất nhiều công tác cho mỗi trọng
tâm. Mỗi người, mỗi nhóm có thể chọn một công tác và đeo đuổi cho đến
khi gặt hái kết quả, có thể thực hiện trong sự nối kết hay tiến hành
song song với nhau. Được vậy thì nhân, tài, vật lực của cộng đồng sẽ
quy tụ vào những trọng tâm cần thiết trong một thời gian đủ dài để tạo
được sự thay đổi.
(3) Phát Triển Hậu Phương
Trong 35 năm qua, cộng đồng Việt đã không để ý đến việc xây dựng nội
lực. Tuyệt đại đa số các dự án, các chương trình, các kế hoạch, các
cuộc gây quỹ đều đổ dồn về cho Việt Nam. Sự chểnh mảng này làm cho cộng
đồng chúng ta kém về tổ chức, yếu về năng lực và vô hình, vô thanh
trong dòng chính bản xứ. Khi tự mình đứng chưa vững thì không thể nào
đóng góp thiết thực cho đồng bào cách nửa vòng địa cầu. Đó là tình
trạng lực bất tòng tâm của chúng ta hiện nay. Do đó, tổ chức, và phát
triển cộng đồng người Việt ở hải ngoại không những là trách nhiệm lương
tâm đối với biết bao đồng hương đang khao khát sự giúp đỡ, là trách
nhiệm ân nghĩa đối với xã hội đã cưu mang chúng ta, mà còn là xây dựng
hậu phương yểm trợ và nuôi dưỡng trường kỳ cho nỗ lực đem lại dân chủ
cho Việt Nam.
Trong một bài sau tôi sẽ đề nghị những trọng tâm để tạo thế và lực cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ.
Ts Nguyễn Đình Thắng
BPSOS
|