Nếu ta tin vào thuyết luân hồi của nhà Phật, thì đây chính là lý do cắt
nghĩa thói tật (căn bệnh) thiếu bình thường của người Việt. Không khéo
chuyện bị ám ảnh vì thời cuộc, chuyện âu lo vì lãnh đạo, âu lo vì đất
nước không có lối thoát sẽ trở thành căn bệnh trầm kha mãn tính của dân
tộc. Trong khi đó, giả sử có được một thống kê, nghiên cứu khoa tâm lý
học sâu rộng toàn diện cho thấy tuyệt đại đa số người Việt thích hàm
hồ, tự cao tự đại, nguyền rủa bóng tối, nguyền rủa (hoặc ngay cả tung
hô) chế độ thì có lẽ căn cơ của căn bệnh ác ý, chia xé, vu khống, nhỏ
mọn sẽ được xác tín.
Có lẽ nhiều người Việt, khi trả lời câu hỏi trên, sẽ phủ định một cách thẳng thừng: "Không, chúng ta không phải là những người bình thường” – và ngay sau đó sẽ bồi thêm với định đề: "Chúng ta là một dân tộc xuất chúng!”
Dĩ nhiên tôi cũng muốn xác quyết như vậy: "Người Việt là một dân tộc xuất chúng!”
Có phải chúng ta là con Rồng cháu Tiên, uy dũng với dòng máu Lạc
Hồng của mấy nghìn năm hiện hữu trên hoàn cầu, với ý chí bất khuất của
tổ tiên, không thể bị đồng hóa dưới sức ép ngàn đời của Đại Hán? Sức đề
kháng mãnh liệt và phi thường của hàng ngàn vạn đấng anh hùng hào kiệt
qua nhiều thế hệ đã giữ vững bờ cõi, giúp Việt tộc trải qua bao nhiêu
cơn cuồng phong bão tố, vững tiến cho đến ngày nay… (nhờ ơn Bác và Đảng. Quý vị độc giả có nghe phảng phất luận điệu tuyên truyền xã hội chủ nghĩa trong mấy câu vừa rồi không, hay phải thêm cái đuôi nhờ ơn Bác và Đảng?
Chỉ tiếc người viết không nói đến chuyện trọc phú, địa hào, đào tận
gốc, trốc tận rễ hay đánh Tây gục, đánh Mỹ nhào… cho bá quyền phương
Bắc hài lòng mà lại nhắc đến chuyện tham tàn của Đại Hán thì chỉ có mấy
người bồi bút của nhà nước mới chửi xéo cho một thằng phản tặc, lực
lượng thù địch như tôi. Ai lại tự dưng nhận vơ mình là tay sai XHCN,
nếu không có người đã chụp cho mình vài cái nón cối!)
Nhưng tiếc thay, sau bao nhiêu oan khiên nghiệp chướng chồng chất từ
nhiều thế kỷ, chiến tranh đẫm máu, người Việt cho đến nay – ngay cả
dưới sự lãnh đạo của đỉnh cao trí tuệ trong 35 năm gọi là độc lập,
thống nhất vừa qua – vẫn chưa thật sự hưởng được thái bình trên đất
nước. Hận thù, đố kỵ, lừa đảo, ganh ghét vẫn ngự trị trong đầu óc và
tâm tư của nhiều người. Lãnh đạo vẫn bình chân như vại, làm ngơ với
những tiếng kêu chính đáng của con dân trước sự bất công, áp bức, trù
dập của nội xâm và nguy cơ ngoại xâm, Bắc thuộc (có thể) lần cuối cùng.
Thành phần được hưởng ơn mưa móc theo đuổi ảo vọng tư bản cá nhân hay
danh vọng bất chính, thi hành chủ nghĩa mackeno. Cái hố chia cách kẻ
trị vì và người bị trị càng ngày trớ trêu, khôn lường.
Bất kể định luật có vay có trả, gieo gió gặt bão của Trời Đất, tác
nhân gây ra tội ác vẫn điềm nhiên ăn trên nồi, ngồi trên trốc, vẫn trơ
thổ địa. Như thể đất nước đang ngập chìm, sâu lắng trong sự thống trị
ác đức, tham tàn của lãnh đạo, như thể đạo lý càng ngày càng rời bỏ, xa
lánh Việt Nam. Có phải vậy nên thánh nhân hay các điều thiện và tốt
lành đã nhượng bước cho cái ác, cái dữ ngự trị ở quê nhà? Có thể nào,
hắc khí của những người chăn dắt dân đen đã tạo nên một tầng ám khí xú
uế xông lên vây bủa bầu trời đất nước, cản ngăn hồn thiêng sông núi,
các đấng anh linh trở về giúp cho dân tộc gỡ rối, thoát khỏi ngõ bí đào
sâu trong hố của tội lỗi? Bởi vì dân tình – trong bao nhiêu năm chịu
đựng khốn khó của thời bao cấp – nay được thả lỏng để tranh giành cái
cặn thừa của nền kinh tế nhỏ giọt (trickled-down economics) theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nên không thoát ra được cuộc sống vật chất của
họ? Ngược lại, do tuyệt đối không được thả lỏng trong tư tưởng thông
thoáng của dân chủ nên đầu óc dân tình ngày càng hẹp hòi trong sự đố kỵ?
Nói một cách khác – không hiểu có phải triết lý nhà Phật hay không –
sau bao nhiêu năm lâm vào các trận máu lửa, giết chóc, tù tội, trù dập,
chia rẽ, đất nước cần có một thời gian an lành dài đủ cho lãnh đạo sống
tốt, chuộc tội với con dân hầu giải thoát những oan trái, cái nghiệp
xấu chồng chất của mấy mươi năm trị vì. Thế mà, nghiệp chướng của dân
tộc vẫn còn nặng nề, chưa hóa giải được, mặc dù đã trải qua 35 năm được
xem như hoà bình, thống nhất đất nước. Ba (sáu) chữ vàng của Bác – độc lập – tự do – hạnh phúc – vẫn là những tôn chỉ không gì quý bằng!
Do ngập chìm trong chém giết hận thù, rồi sau đó thay vì sống hướng
thiện (không phải theo gương đạo đức của Bác Hồ) nhằm vượt qua được
những vướng mắc của hận thù, ganh ghét và đố kỵ để giải thoát cái oan
nghiệt của dân tộc, người Việt – do tham vọng cá nhân đảng phái – lại
càng trở nên ích kỷ, mạnh được yếu thua, sống chết mặc bay, tiền thày
bỏ túi.
Trong nước, hoặc bị bưng bít, hoặc bị chai lì vì những bất cập, bất
công không bình thường của một xã hội thiếu định hướng dân sự (civil
society; chủ trương của nhà nước: mọi tổ chức công ích, ngay cả từ
thiện, phải có sự chỉ đạo của Đảng) người dân vẫn tìm cách bươn chải,
bình thường hóa cuộc sống trong một môi trường riêng biệt, giả tạo của
mình. Do đó theo ước tính của người viết, sẽ khó có những tiến triển
khả quan cho đất nước nếu không có một cải tổ thật sự, chủ động từ trên
xuống dưới, từ trong ra ngoài.
Ở ngoài nước – ngoại trừ những thành phần được coi là Mỹ-Việt (Mỹ
hóa), không biết, không thiết đến chuyện Việt Nam – nhiều người trên 40
vẫn bị ám ảnh vì những chuyện tiêu cực ở Việt Nam. Họ chực chờ và
chuyển tải – năm này qua tháng nọ, những email, truyền thông báo chí –
tin tức khả quan ở Việt Nam. Nhưng phần lớn những tin đến với họ là
những tin xấu, yếu hèn của lãnh đạo so với ảnh hưởng và chi phối của
Bắc triều. Đó là chưa kể đến những thành phần thiểu số nhưng ồn ào và
náo nhiệt, thích xách động cộng đồng, tạo cho mình thế lực "người hùng
gây máu lửa”.
Nhiều người trong họ uất ức vì sự thảm bại trái gió trở trời
của miền Nam, muốn bám víu vào quá khứ của Việt Nam Cộng hoà, đấu tranh
(bằng mồm) để tranh giành lý tưởng chống cộng bằng chính nghĩa cờ vàng,
nhưng thay vì kêu gọi đoàn kết, tạo nên số đông đáng kể lại để đối
trọng với nhà nước chuyên chế, họ lại cô lập chính mình vì những chuyện
thiển cận, quá khích, làm lợi cho những người cộng sản nằm vùng thích
trà trộn vào những nhóm này để xâu xé, chia rẽ cộng đồng.
Nếu ta tin vào thuyết luân hồi của nhà Phật, thì đây chính là lý do
cắt nghĩa thói tật (căn bệnh) thiếu bình thường của người Việt. Không
khéo chuyện bị ám ảnh vì thời cuộc, chuyện âu lo vì lãnh đạo, âu lo vì
đất nước không có lối thoát sẽ trở thành căn bệnh trầm kha mãn tính của
dân tộc. Trong khi đó, giả sử có được một thống kê, nghiên cứu khoa tâm
lý học sâu rộng toàn diện cho thấy tuyệt đại đa số người Việt thích hàm
hồ, tự cao tự đại, nguyền rủa bóng tối, nguyền rủa (hoặc ngay cả tung
hô) chế độ thì có lẽ căn cơ của căn bệnh ác ý, chia xé, vu khống, nhỏ
mọn sẽ được xác tín.
Do vậy, trước tiên người viết thấy thương hại cho chính mình, cảm
nhận được cái đáng thương vô bờ bến của của dân tộc mình sống trong một
sự chịu đựng dai dẳng gần cả một thế kỷ nay mà vẫn không tìm ra lối
thoát. Trong khi đó nhận thức ra được chính mình là một người không
bình thường vì đã mất quá nhiều thì giờ trong cuộc sống, mệt óc vì
những chuyện không đâu của Việt Nam, mà nếu có đâu thì cũng bất lực
chẳng làm được gì. Có người bảo cứ kêu gào dân chủ thì sẽ giải đáp được
nan đề này.
Trong khi nhiều người hô hào dân chủ thì mình lại quá hãi hùng, ngán
ngẩm cho hai chữ dân chủ. Có phải Việt Nam đang cần dân chủ? Có phải
dân chủ là lối thoát của thế kỷ không? Có phải "dân chủ pháp trị” đối trọng với "chuyên chế cộng sản”? Là giải pháp cuối cùng cho Việt Nam? Đúng cả đấy chứ, đúng không thể sai vào đâu được!
Nhưng ngặt một nỗi, nhiều người không đích thực hiểu thấu đáo khái
niệm của dân chủ, họ tự gán cho mình danh từ dân chủ như lá bùa hộ
mạng, che đậy sự kém cỏi của mình. Làm như hễ tự phong cho mình hai từ
này là họ đã đạt được cái đích "tôi là người dân chủ” chống
cộng nên tôi đúng, anh không chống cộng như tôi nên anh sai, không phải
dân chủ vì anh không "máu” (hăng tiết vịt) bằng tôi! Họ không cần biết
mình đã làm gì để xứng đáng với danh xưng này. Hoặc tệ hại hơn anh là
cộng sản, tay sai cộng sản. Buồn cười, trong một nước dân chủ như Hoa
Kỳ hay Úc châu, đã có những vụ kiện tụng đền bồi hàng chục, hàng trăm
ngàn Mỹ kim vì chuyện chụp mũ cộng sản. Do đó những người chụp mũ
thường là những người ném đá giấu tay, không dám dùng tên thật để vu
khống toạc móng heo. Thí dụ thay vì: Nguyễn-Khoa Thái Anh là VC nằm
vùng hay thân cộng, lại phải rào trước đón sau, dẫn giải những bài chú
trọng tình người do NKTA viết nhằm gây nghi vấn, tung hỏa mù về lập
trường của tác giả, ngụ ý hắn thiên tả, có vấn đề!).
Trước đây không lâu, trên diễn đàn talawas còn có người vặn vẹo tôi với sự cường điệu: "Không tự gán cho mình cái mác dân chủ thì phải cần ai xét-ti-phai (certify)?”
Có phải làm người dân chủ thật khó vì điều kiện dân chủ không đòi hỏi
sự ồn ào, vỗ ngực xưng tên, áp đảo mà nó thể hiện qua hành động, qua
cách ứng xử của mình? Có phải muốn tranh đấu cho dân chủ đòi hỏi sự đa
nguyên? Mà không chỉ một người, một nhóm, một phe đảng độc quyền giành
chính nghĩa, giành cái đúng về mình. Thật xấu hổ nếu tôi phải hợm hĩnh,
tự xưng mình là người dân chủ. Vì sao? Đã quá nhiều người lạm dụng từ
này để lấn át, chụp mũ vu khống kẻ khác là Việt gian.
Đây là hội chứng của mấy chục năm chia xé Bắc-Nam, Quốc-Cộng, nồi da
xáo thịt và chính là hệ quả và phản ứng của sự cai trị lâu đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Nó đã làm con dân Việt Nam không nhiều thì ít – thay
vì trở thành xuất chúng – đã trở nên những người nhỏ nhen,
bất-bình-thường. Một căn bệnh tâm lý chỉ có thể giải thoát được nếu
Việt Nam sẽ kinh qua một cuộc đổi mới toàn diện trong vòng nhiều năm
tới và có thể sẽ phải kéo dài đến nửa thế kỷ thì mới mong gột rửa được
hết tàn dư và chứng tích khủng khiếp của một chủ nghĩa ngoại lai quái
ác và hậu quả tai hại của nó.
Còn liều thuốc chữa cho bản thân thì sao? Một người bạn trẻ đẹp
khuyên người viết nên sống cho tình yêu, đừng chuốc vào thân những
chuyện vung tay quá trán, không đâu của mình, chỉ tổ mang lại thảm sầu
cho cuộc sống. Như một con chim bị đạn, mình không tin những lời khuyên
can, nhắn nhủ của người trong cuộc, nhất là khi họ là phái đẹp và ở
Việt Nam.
Rốt cuộc tôi không thể để cho bản thân mình trở thành một dữ liệu
của thống kê, của chính dự đoán của mình. Nghĩa là những người mang
nặng hành trang Việt Nam đã trở nên những kẻ bất bình thường, không thể
sinh hoạt bình thường trong cuộc sống an lành của hải ngoại, nhưng trái
lại, họ thích tìm thú đau thương qua những thông tin, những biến chuyển
trong nước khiến chúng chi phối, ám ảnh tâm tư mình. Quanh năm suốt
tháng họ bận tâm vì những chuyện vô bổ bên kia Thái Bình dương, bỏ phí
biết bao nhiêu thì giờ, công sức (kể cả tiền bạc) quan tâm đến chuyện
đại sự không liên can đến cá nhân mình, trong khi câu chuyện làm ăn
trước mắt thì sao nhãng, chả ra làm sao. Đây là những người tâm lý học
gọi là dysfunctional.
Cho nên tôi, người viết cần phải giục giã con tim và khối óc của
mình hãy mau tìm quên những chuyện tiêu cực của Việt Nam cho đỡ nhức
đầu, và hãy sống cho bãn ngã như thể loài vật. Hãy tránh xa chuyện mấy
ông Việt Nam.
© 2010 Nguyễn-Khoa Thái Anh
© 2010 talawas