Joshua E. Keating/Foreign Policy
Lê Quốc Tuấn X-CafeVN chuyển dịch Việt Ngữ
Với thời gian đang đến hạn ngày 8 tháng tư mà Tổng thống Barack
Obama và các nhà lãnh đạo quốc hội vẫn chưa giải quyết được mối tranh
chấp về kinh phí tài trợ cho việc phá thai và những thay đổi trong Đạo
luật Không khí sạch, có lẽ nhiều khả năng là chính phủ liên bang Hoa Kỳ
đang đi dần đến việc phải đóng cửa ngưng hoạt động. Nếu việc đóng cửa
tiếp tục kéo sang Thứ hai, hàng trăm ngàn công nhân viên chức liên
bang, trong các ban ngành không cần thiết sẽ phải nghỉ việc. Các dịch
vụ thiết yếu, như quốc phòng sẽ tiếp tục, nhưng các quân nhân có thể sẽ
không được trả lương. Các dịch vụ quan trọng khác như phúc lợi ích cho
cựu chiến binh và các thử nghiệm lâm sàng tại Viện Y tế quốc gia cũng
sẽ có thể bị đình chỉ.
Có nước nào khác từng phải đối phó với điều này không ?
Chưa bao giờ có. Các nước số có thể có đảo chính, cách mạng và sụp
đổ, nhưng một chính phủ bế tắc đến mức chỉ còn cách phải ngưng hoạt
động dường như là một hiện tượng độc đáo chỉ có ở Hoa Kỳ. Một số đặc
điểm của hệ thống chính trị Hoa Kỳ - nhánh hành pháp mạnh mẽ với quyền
phủ quyết, những người gây trở ngại ở Thượng viện - đã tạo nên loại bế
tắc mà chúng ta đang thấy hiện nay. Trong cơ chế nghị viện, từng được
phần lớn các nền dân chủ ở châu Âu và châu Á sử dụng, tiến trình phê
chuẩn ngân sách đều giống nhau như trên giấy tờ: Vị Thủ tướng chuẩn bị
"ngân sách nhà nước" và trình lên cho quốc hội để biểu quyết. Nhưng nếu
quốc hội bác bỏ ngân sách ấy, điều đó được xem như là một dấu hiệu cho
thấy rằng chính phủ không còn được quốc hội tín nhiệm và buộc phải từ
chức.
Đây đúng là điều đã xảy ra ở Bồ Đào Nha vào tháng trước, khi Thủ
tướng Jose Socrates đã từ chức sau khi ngân sách mới gồm các biện pháp
khắc nghiệt bị từ chối. Nước này hiện đang dưới sự lãnh đạo của một
chính phủ lâm thời, cho đến khi cuộc bầu cử mới có thể được tổ chức và
một chính phủ mới được hình thành - mà có lẽ sẽ cố gắng thông qua ngân
sách bị cắt xén của họ. Tuy nhiên, chỉ vì một đất nước có một cơ chế
nghị viện là "không có chính phủ" không có nghĩa là các công việc của
chính phủ phải dừng lại. Nhờ các dịch vụ phi chính trị dân sự mạnh mẽ
mà hầu hết các chính phủ đều có thể tiếp tục hoạt động bất chấp là ai
đang cầm quyền. Bỉ đã từng không có một chính phủ kể từ tháng 6 năm
2010, nhưng, về tổng thể, các tàu lửa vẫn chạy đúng giờ, thùng rác vẫn
được mang đổ và thậm chí ngân sách vẫn đưoọc thông qua.
Về mặt lý thuyết, đóng cửa kiểu Mỹ có thể xảy ra trong một cơ chế
nghị viện nếu ngân sách bị từ chối và chính phủ không từ chức - nhưng
thực tế không bao xảy ra như thế. Không lâu trước đây, đã có những nỗi
lo sợ rằng nếu Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan chứng tỏ không thể thông
qua được một ngân sách vào khởi điểm của năm tài chính 2011 vào tháng
Tư, việc trả lương cho công chức và một số dịch vụ hành chính của chính
phủ có thể bị đình chỉ. Nhưng cuộc khủng hoảng cuối cùng đã được ngăn
chặn lại khi ngân sách được thông qua trong bối cảnh của trận động đất
thảm khốc hồi tháng trước. Những cuộc đấu tranh về các hóa đơn chi tiêu
có liên quan trên vẫn chưa được thông qua.
Ngay cả các chính phủ có cấu trúc giống như Mỹ, với các ban ngành
hành pháp mạnh mẽ, dường như không hề có tranh chấp về ngân sách nguy
hiểm đến mức phải đóng cửa. Brazil đã bắt đầu năm 2008 mà không có ngân
sách sau khi kế hoạch chi tiêu của cựu Tổng thống Luiz Inácio Lula da
Silva đã bị bác bỏ bởi Quốc hội, nhưng không hề có sự gián đoạn đến các
dịch vụ của chính phủ. (Dịch cúm từng thành công trong việc đóng cửa
hầu hết các dịch vụ công cộng của Mexico vào năm 2009.)
Trong thực tế, việc đóng cửa chính phủ chỉ từng là một đặc điềm của
nền chính trị Mỹ mới trong 30 năm qua. Đạo luật chống suy giảm, ban đầu
được ban hành vào năm 1884, nghiêm cấm các cơ quan liên bang không được
hoạt động hoặc ký kết kết hợp đồng chưa được tài trợ đầy đủ của Quốc
hội. Nhưng trong hầu hết lịch sử của đất nước, tin rằng luât định không
cho phép đóng cửa ngưng hoạt động, các cơ quan liên bang vẫn đã vẫn
tiếp tục hoạt động giữa các thời gian không được tài trợ trong khi cố
gắng để giảm thiểu các chi phí không cần thiết.
Tuy nhiên, vào năm 1980, Benjamin Civiletti, bộ trưởng tư pháp của
Jimmy Carter đã đưa ra một quan điểm nhằm giải thích đạo luật hạn hẹp
hơn để yêu cầu các cơ quan đình chỉ hoạt động cho đến khi một đạo luật
thích hợp mới được Quốc hội thông qua. Kể từ đó, đã có năm lần đóng
cửa: hai lần dưới thời Ronald Reagan chỉ kéo dài vài giờ, một lần dưới
thời George H.W Bush vốn may mắn rơi vào kỳ nghỉ cuối tuần, và hai lần
dưới thời Bill Clinton kéo dài 5 và 21 ngày - trong đó ước tính có
800.000 nhân viên liên bang đã phải nghỉ việc. Một số tắt máy chính
quyền nhà nước cũng đã diễn ra. Năm 1990, Quốc hội đã thông qua pháp
luật để đảm bảo rằng dịch vụ thiết yếu như thực thi pháp luật, quốc
phòng tiếp tục hoạt động trong khoảng cách tài trợ.
Còn đối với cuộc khủng hoảng hiện nay, Quốc hội đã thường xuyên trì
hoãn việc đóng cửa chính phủ bằng cách thông qua dự luật tài trợ tạm
thời gọi tên là các giải pháp còn tiếp tục (continuing resolutions).
Một số đề xuất cải cách đã được đề xuất để tạo việc tự động thông qua
các nghị quyết này giữa các khoảng trống về kinh phí. Điều này có thể
cứu được hàng ngàn công nhân viên liên bang và những người phụ thuộc
vào dịch vụ của họ - nhưng đây sẽ là một thất bại thực sự đối với một
công cụ chính trị "bên bờ vực thẳm" duy nhất độc đáo của Hoa Kỳ trong
chính trị.
Foreign Policy