Thường Sơn (CTV Phía Trước) -
Dù đang rất cần một sự đồng thuận từ lòng dân, nhưng con đường hướng
đến một cấp độ cùng vị thế chính trị toàn trị trong tương lai của Nguyễn
Tấn Dũng rất có thể sẽ bị phản tác dụng bởi chính các nhóm lợi ích mà
ông, vô tình hay hữu ý, đã dung dưỡng.
Hậu quả sau hai mươi năm
Hiểu theo nghĩa nào đó, Việt Nam là một quốc gia quá thận trọng
trong việc lượng định những vấn đề thuộc về mặt trái xã hội. Thường thì
một số xác nhận mơ hồ đã chỉ hình thành sau một thời gian đủ dài cho quá
trình kết tụ của hàng loạt hậu quả đặc biệt hữu hình.
"Nhóm lợi ích” là một minh họa điển hình. Vào cuối tháng 7/2011,
khi một Chính phủ mới được Quốc hội bầu ra, đã chỉ thấp thoáng khái niệm
"lợi ích nhóm”, nhưng không phải được nêu ra bởi các đại biểu dân cử mà
đơn giản được khởi phát từ các nhà hoạt động xã hội như Lê Đăng Doanh,
Tương Lai – những người có bề dày nghiên cứu về vô số hệ quả phát sinh
trong hai mươi năm qua. Kể từ thời mở cửa năm 1991 đến nay, đối với toàn
bộ nền kinh tế, tất nhiên việc này cũng gây nên tác động rất cay đắng
cho "sân sau” của nền kinh tế đó: thực trạng ngổn ngang và đầy rẫy bất
công trong xã hội.
Trong suốt năm 2011, có lẽ nhận định sâu sắc nhất, gián tiếp chĩa
mũi dùi vào nhóm lợi ích đã thuộc về nhà kinh tế Lê Đăng Doanh: Từ năm
1991 đến nay, chưa bao giờ tình hình kinh tế – xã hội lại xấu như hiện
nay.
Nhưng phản ứng với nhận định trên cùng nhiều phản biện của các trí
thức khác, Chính phủ mới vẫn hoàn toàn im lặng. Về phía Quốc hội thì xem
ra họ đã làm đúng thiên chức khi "biểu thị tiếng nói đồng thuận của
người dân đối với các chính sách đúng đắn của chính phủ”.
Nhưng khác với những năm trước, lần này sự thể đã không còn nằm
trong vòng kềm tỏa của những người cầm cương vận mệnh kinh tế dân tộc.
Quý 3 năm 2011 đã bất chợt gióng lên tiếng chuông cảnh báo khẩn cấp đối
với hoạt động của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Hoạt động này, chỉ mới tính từ năm 2007 đến thời điểm đó, đã quá đủ cho
những hậu quả ê chề.
Tại Việt Nam, khối DNNN tuy chiếm đến 70% vốn đầu tư toàn xã hội,
50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70%
nguồn vốn ODA, nhưng chỉ đóng góp khoảng 37-38% GDP. Có đến 31% DNNN bị
lỗ trong sản xuất kinh doanh, 29% hoạt động không hiệu quả, lỗ lãi tượng
trưng.
Chỉ riêng năm 2009, nợ của 81/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước
(chưa tính Vinashin) đã là 813.435 tỷ đồng. Nếu tính cả nợ của Vinashin,
theo báo cáo của Bộ Tài chính là 86.000 tỷ đồng, thì nợ của khu vực
DNNN đến năm 2009 đã lên tới 54,2% GDP của năm 2009. Hàng năm có tới 12%
DNNN có kết quả kinh doanh thua lỗ và mức lỗ bình quân của DNNN cao gấp
12 lần so với các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước.
Nguồn cơn nào đã tích tụ và dẫn đến những hậu quả trên?
Sự thừa nhận quá muộn màng
Nguyên nhân năng lực quản trị yếu kém vẫn thường được nêu ra như một
lý do muôn thuở, nhưng dù sao đó chỉ là một trong thiên hình vạn trạng
của mà các tập đoàn kinh tế nhà nước biểu hiện. Đầu tư trái ngành, trong
đó đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, cộng với khả năng
phán đoán sai về các thị trường đầu cơ đã khiến cho một loạt DNNN như
Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, Tổng công ty
Hàng hải Việt Nam, cùng nhiều DNNN khác sa chân vào con đường dẫn tới
vực thẳm.
Chính Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã phải thừa nhận tình
hình bĩ cực trên, cho dù như một "quy luật”, những hàng rào che chắn vẫn
luôn hiện ra trên con đường dẫn ra sự minh bạch. Vào tháng 11/2011, một
phiên họp của Quốc hội đã lần đầu tiên đặt vấn đề về "lợi ích nhóm”, và
ngay cả Chính phủ mới cũng phải thừa nhận là đang tồn tại những nhóm
lợi ích ngay trong lòng nền kinh tế quốc doanh. Cùng lúc, giới truyền
thông trong nước cũng bùng lên lời cảnh báo về hiện tượng mới về tên gọi
nhưng cũ về bản chất này.
Dù sao, thời điểm cuối năm 2011 cũng đánh dấu sự thừa nhận đầu tiên
của chính quyền đối với hiện tồn nhóm lợi ích ở Việt Nam. Tiếp theo đó,
một số nhân vật chủ chốt của Bộ Chính trị, trong đó đặc biệt là Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang và một vài quan
chức cấp cao khác của Đảng, cũng đã đề cập đến cụm từ này, tuy mỗi người
có một mức độ lưu ý khác nhau.
Song như một căn bệnh mãn tính, người ta vẫn không thể vạch mặt chỉ
tên những điều đã hiện hình từ quá lâu nay. Nhóm lợi ích, hay lợi ích
nhóm đã chỉ xuất hiện với tư cách là những khái niệm, thậm chí là khái
niệm xã hội học và thiên về tính chất nghiên cứu chứ không nhằm phục vụ
cho mục tiêu mổ xẻ, phản biện và điều chỉnh tự thân nó. Vẫn lồng trong
truyền thống văn hóa "đóng cửa bảo nhau” của người Việt, cho tới nay vẫn
không hề xuất hiện bất cứ một nhóm lợi ích cụ thể nào.
Những bài diễn văn và các diễn từ lê thê của các quan chức cấp cao
trong Chính phủ, từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho đến một số Bộ trưởng
ngành Tài chính, Ngân hàng, Đầu tư… đã chỉ nhắc đến nhóm lợi ích như một
trào lưu, một kinh nghiệm tham khảo của các nước tư bản, hay chính xác
hơn là một hình ảnh mang tính phủ dụ trước tâm trạng khó có thể kềm chế
hơn nữa của người dân.
Nhóm lợi ích bao cấp
"Chưa bao giờ các nhóm lợi ích lại hùng mạnh như bây giờ” – đó chỉ
là một đánh giá hoàn toàn riêng lẻ, thậm chí riêng tư mà không được công
nhận chính thức về mặt nhà nước, xuất phát từ tiếng nói hiếm hoi của
một đại biểu Quốc hội. Phát biểu đó không phải được đưa ra trên các diễn
đàn chính thức của cơ quan dân cử này mà chỉ từ một hành lang khuất nẻo
nào đó.
Những gì mà các quan chức mới chỉ "cảm thấy” và còn đang "trong quá
trình nghiên cứu” thì người dân đã sờ thấy, và hơn thế nữa, người dân
cùng xã hội đã trở thành nạn nhân của sự cảm thấy ấy. Đó cũng là một
hình ảnh đồng thuận ở mức độ cao trong xã hội Việt Nam đương thời, giữa
người dân đóng thuế và các nhóm lợi ích.
Sự đồng thuận tiêu biểu nhất hẳn nhiên liên quan đến cơ chế "bù lỗ
vào giá” mà những nhóm lợi ích tiêu biểu nhất, trực diện nhất về ảnh
hưởng xã hội đã gây ra. Với hơn ba chục ngàn tỷ đồng của EVN và hơn chục
ngàn tỷ đồng của Petrolimex từ hậu quả lỗ lã do đầu tư trái ngành, cùng
thế độc quyền và đặc quyền, cũng như thường xuyên được "bảo kê” bởi
những cơ quan quản lý nhà nước cấp cao như Bộ Công thương và sự thỏa
hiệp của ngay một bộ trưởng ngành tài chính được coi là trong sạch như
Vương Đình Huệ, các DNNN này đã âm thầm tiến hành những chiến dịch tăng
giá sản phẩm điện và xăng dầu từ tháng 12/2011.
Kết quả của việc tăng giá điện do EVN vào cuối tháng 12/2011 đã
thúc đẩy chỉ số lạm phát có cớ để tăng thêm ít nhất 0,36% (chỉ tính theo
một ước lượng ở mức tối thiểu của Cục quản lý giá – Bộ Tài chính),
trong khi nhiều mặt hàng tiêu dùng và sinh hoạt cũng tận dụng cơ hội
trời cho này để tăng vọt đến 20-30%.
Nhưng nếu EVN đã được hưởng đặc quyền tăng giá 5% thì Petrolimex
còn làm được gấp đôi như thế: 10% tăng giá xăng dầu vào đầu tháng
3/2012.
Có thể nói, EVN và Petrolimex là hai nhóm lợi ích dễ thấy nhất, hữu
hình nhất và có tác động trực tiếp nhất đối với giá sinh hoạt và mặt
bằng dân sinh. Tuy nhiên, một điều hoàn toàn khó hiểu nhưng lại không
khó để nhận ra là sau khi các Bộ Công thương, Tài chính lặng lẽ thỏa
hiệp với những cú tăng giá bất thường này, ngay cả Chính phủ, với vai
trò trực tiếp của Thủ tướng, lại không có bất cứ một động tác can thiệp
nào nào nhằm "bình ổn giá”.
Nhóm lợi ích thị trường
Bản thân Nguyễn Tấn Dũng cũng là một mâu thuẫn có tính tự thân.
Trước Quốc hội vào tháng 8 và tháng 11/2011, người đứng đầu Chính phủ
Việt Nam đã luôn đưa ra cam kết sẽ kềm chế lạm phát ở mức tối thiểu; và
trong năm 2012 sẽ giữ lạm phát chỉ dưới một con số. Sự hứa hẹn này được
nêu ra, cùng với nhiều khuyến khích từ các tổ chức quốc tế như ADB, ANZ,
Moody’s, IMF… đã như củng cố thêm cho căn bệnh thành tích duy ý chí mà
không cần đặc biệt quan tâm đến sự phân tích lượng lý từ thực tiễn nhiều
mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm đã tăng đến 50%, còn hố phân cách thu
nhập xã hội ngày càng rộng thêm ra.
Ở một trường hợp khác, người ta lại chứng kiến mối quan hệ khá bất
thường giữa Nguyễn Tấn Dũng với Nguyễn Văn Bình – Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam. Là một thành viên trong Chính phủ mới từ tháng
8/2011, ông Bình đã nhanh chóng chuyển từ tư thế một lãnh đạo được kỳ
vọng về chuyên môn và sự công tâm sang việc vận dụng chuyên môn vào mục
tiêu "bật đèn xanh” cho các nhóm lợi ích khác – vàng và ngân hàng.
Trong suốt nửa cuối năm 2011, thị trường vàng Việt Nam đã không hề
được "bình ổn giá”. Thay vào đó là hình ảnh nhộn nhạo bất tuân pháp luật
của các nhóm đầu cơ vàng trong hàng loạt chiến dịch nhập khẩu độc
quyền, bán vàng giá cao, treo giá vàng trong nước chênh cao so với giá
vàng thế giới đến 4-5 triệu đồng/lượng…
Tương tự, nhóm ngân hàng cũng trở nên một ví dụ sống động về đặc
quyền do Ngân hàng Nhà nước tạo ra, với lãi suất cho vay treo cao, bất
chấp hơn 50.000 doanh nghiệp đã phải giải thể, và hàng tháng vẫn đang có
ít nhất hàng ngàn doanh nghiệp khác phải phá sản do không có vốn để đầu
tư sản xuất.
Nếu những DNNN đầy tai tiếng như EVN và Petrolimex phải dựa vào
thói quen bao cấp và cơ chế chạy chọt để tìm ra lối thoát, thì nhiều
ngân hàng lại tồn tại đầy vững vàng với núi lợi nhuận cao ngất trong
suốt năm 2011. Đặc biệt từ khi Nguyễn Văn Bình chấp nhiệm chức vụ Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng đã vượt lên trên tất cả các nhóm lợi
ích khác, trở thành nhóm lợi ích số một, thao túng gần như toàn bộ huyết
mạch tài chính và nền kinh tế Việt Nam.
Xoáy trôn ốc thể chế
Giữa lời nói và việc làm của các quan chức điều hành kinh tế Việt
Nam đã luôn tồn tại một sự bất nhất đến khó hiểu và khó lường. Sự im
lặng gần như tuyệt đối của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước động thái
chây ì không chịu hạ lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước đã khiến
người ta có khá nhiều cơ sở để nghi ngờ vào thái độ thiếu khách quan của
ông. Trong khi chính ông, trong không ít lần diễn giải trước công luận
và dư luận, lại lên tiếng đòi hỏi loại trừ đặc quyền đặc lợi của các
nhóm lợi ích.
Quả là chưa bao giờ ở Việt Nam lại diễn ra một khác biệt lớn đến
thế giữa phía trước và phía sau tấm màn nhung điều hành thể chế. Trong
khi các nhân vật thuộc nhóm lợi ích kinh tế đã hoàn toàn lộ diện tính
chất lũng đoạn của chúng trước 99% khán giả trên sân khấu quốc gia, thì
sau tấm màn nhung vẫn là động thái "không thấy, không nghe, không biết”
của 1% giới quan chức điều hành.
Vẫn biết là Nguyễn Tấn Dũng đang rất cần một sự đồng thuận từ lòng
dân, đặc biệt từ sau tháng 8/2011, và bộc lộ đầu tiên của vị thủ tướng
này đã diễn ra trước Quốc hội vào tháng 11/2011 về vấn đề chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như thừa nhận
tính yêu nước của hoạt động biểu tình tại Hà Nội chống sự can thiệp của
Trung Quốc vào khu vực biển Đông… Nhưng những biểu hiện nhằm tái hiện
hình ảnh "công bộc của dân” mà Nguyễn Tấn Dũng thể hiện vẫn còn là quá
ít ỏi, quá nhỏ bé so với những hiện tồn và hậu quả ghê gớm từ hiện trạng
các nhóm lợi ích đang mượn danh nghĩa Chính phủ để thao túng gần như
toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
Bởi nếu vẫn chỉ duy ý chí hoặc gián tiếp tạo điều kiện cho sự lũng
đoạn của các nhóm lợi ích, bản thân Nguyễn Tấn Dũng lại đang rơi vào một
tình thế khá nguy hiểm: phía trước, bên cạnh và cả phía sau ông vẫn
hiện diện những thế lực chính trị và tài phiệt không hoàn toàn đồng
thuận với ông. Những thế lực này lại có mối liên hệ với dân chúng ở
những chiều cạnh khác, kín đáo và có tác dụng hơn so với quá nhiều phản
cảm từ phía hệ thống chính quyền từ trung ương xuống địa phương gây ra
đối với nhân dân.
Nói cách khác, con đường hướng đến một cấp độ cùng vị thế chính trị
toàn trị trong tương lai của Nguyễn Tấn Dũng rất có thể sẽ bị phản tác
dụng bởi chính các nhóm lợi ích mà ông, vô tình hay hữu ý, đã dung
dưỡng.
Thường Sơn
© 2012 TCPT