Năm
1981, trên tờ
“Con ong tỵ nạn”
(Pháp) đã đăng toàn bộ nội dung bản di chúc
dưới
dạng chữ viết tay của Hồ Chủ Tịch.
Ngay sau đó tờ
“Thức Tỉnh”
ở San diego (Mỹ) đăng lại nội dung này.
Điều quan trọng nhất,
nó là bản
di chúc viết tay chứ không phải đánh máy.
Nhân viên kiểm tu thuộc hai
quốc gia trên khẳng định:
“Không kẻ nào đủ tài để làm giả di chúc Hồ Chí Minh… Cho dù có là chuyên
gia viết chữ giả cũng chỉ qua mặt người thường, không qua mặt được những
cán bộ chuyên nghiệp chúng tôi”.
Hơn nữa qua việc “ngửi hơi văn”, xác định lại
tính chất sự việc viết lại trong di chúc (ngày 14 tháng 8 năm 1969) mọi
người đều thấy có rất nhiều yếu tố để khẳng định…
Mở đầu bản di chúc viết:
“Thời xưa ở bên Trung
Quốc người ta thường nói, Con chim trước khi chết thì tiếng kêu thương,
còn người trước khi chết thì lời nói phải: Tôi tự xét mình chẳng còn
sống bao lâu nữa, nên cố gắng viết di chúc này, mong rằng những điều
viết ra không phải là những điều sai quấỵ
Sau đó là sự xuất hiện của hai nhân vật “chóp
bu” của Đảng Cộng Sản Việt Nam - hai học trò xuất sắc nhất của “Bác” lúc
bấy giờ, song lại vượt mặt, quay lại dồn ép, cấm vận hòng vô hiệu hoá
bác, nên ông viết:
Vừa mới đây, Lê Duẩn có
đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, ép buộc tôi phải viết bản di chúc
theo ý muốn của họ… Tôi đã viết mà trong bụng vẫn tấm tức vô cùng.
Theo Bùi Tín… kể từ tháng 5 năm 1965, khi
bước vào tuổi 75, biết mình chuẩn bị “nói tiếng đất, quên tiếng trời”,
ông bắt đầu viết di chúc để lại cho hậu thế muôn đời. Sau đó cứ vào
tháng 5 hàng năm, tháng có ngày sinh nhật của người, cả nước nhiệt liệt
chúc mừng, ông lại lôi ra cặm cụi viết lại, sửa thêm. Vì vậy tính đến
5-1969, là năm cuối cùng ông nấn ná ở lại cõi đời (khi thuốc độc của
Đảng mượn tay bác sĩ Tôn Thất Tùng tiêm bắt đầu phát huy tác dụng) ông
có tới 4 bản di chúc (quả là kỳ tài, độc đáo, gi gỉ gì gi cái gì cũng
lắm. Từ ngày sinh, ngày mất, tên tuổi, vợ con, di chúc v. v... bao giờ
cũng gấp 4, 5 lần người thường). Cũng trong cuốn “Hoa xuyên tuyết”
(trang 118) Bùi Tín viết: “Ông Vũ Kỳ kể lại: Vào buổi tối ngày 2-9-1965,
sau khi ông Hồ Chí Minh qua đời, ông Phạm Văn Đồng đến nơi đặt thi hài
bác. Với tư cách của một thư ký riêng đầy trung thành, mẫn cán, ông Vũ
Kỳ vội đưa ra một phong bì lớn đựng cả bốn bản di chúc. Sợ rầy rà, ông
Đồng vội xua tay ngăn lại, bảo: - Không, tôi không nhận. Đây là chuyện
hệ trọng. Để sáng mai có đầy đủ Bộ Chính trị, đồng chí hãy trình ra”.
Sáng 3-9-1969, trước mắt đông đủ Bộ Chính trị, ông Vũ Kỳ làm đúng như
lời ông Đồng dặn. Ông Lê Duẩn cầm rồi gọi ông Hoàng Tùng, (Tổng biên tập
báo Nhân Dân) vào phòng bên cạnh. Sau khi xem xét qua loa nội dung bốn
bản, ông Duẩn quyết định chỉ đưa ra một bản, tự tay cắt bỏ, sửa chữa vài
chỗ rồi giao cho ông Hoàng Tùng công bố cho mọi người biết.. ”.
Thế là bốn bản di chúc ấy ông viết cho Đảng,
còn tờ di chúc thứ năm này ông viết riêng cho mình, cũng là cho toàn thể
đồng bào trong cả nước, cho những ai quan tâm tới ông trên thế giới và
tất nhiên cho chính những đứa con đẻ, con rơi, cả người Việt lẫn Trung
Quốc, Thái Lan, Nga, Pháp của ông:
Nay tôi viết thêm tờ di
chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra tôi không công nhận bất cứ bản
di chúc nào khác. Tôi ước mong một ngày nào đó, bản di chúc tôi viết đây
sẽ được mọi người biết tới, thì ở thế giới bên kia tôi mới được thỏa
lòng.
Sau phần mào đầu là nội dung, cũng là sự thú
tội, trối trăn của ông, trước khi trở thành người thiên cổ:
Tôi vốn
con nhà nghèo nhưng từ bé đã nuôi mộng đảo lộn sơn hà và đem lại vẻ vang
cho nòi giống, nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không hề quản ngại
khó khăn, gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong có ngày tổ quốc ta độc lập,
giàu mạnh, dân ta hạnh phúc, tự do
Lý do để ông nuôi mộng “đảo lộn sơn hà” là:
Tôi thường đọc lịch sử
nước Việt Nam ta, thấy có ông Trần Thủ Độ là một tay hào kiệt hiếm có
trên đời, đã không quản ngại làm việc ác, làm phản mà gây nên cơ nghiệp
hiển hách của nhà Trần, đuổi giặc Nguyên, đem lại vinh quang cho dân tộc
về cả văn minh và đời sống.
Ở đây ông hé mở giúp chúng ta một điều bí mật
của cuộc đời mình mà suốt thời kỳ Đảng trị (1930-2005) từ đứa bé lên 5
đến cụ già gần đất xa trời không ai được biết, vì Đảng hoàn toàn bưng
bít sự thực.
Là người Việt Nam ai cũng biết Trần Thủ Độ là
người vô cùng xảo hoạt, đầy uy lực, quyền bính, nên đã thao túng được
toàn bộ triều đình nhà Lý. Biết Lý Huệ Tông (con trưởng của vua Cao
Tông) thể tạng nhỏ lại mang trọng bệnh, lên ngôi được 3 năm vẫn chưa có
con trai (1221- 1224) liền vận động hoàng hậu là Trần thị Dung và cận
thần ép Lý Huệ Tông phải ra chùa Chân Giáo chữa bệnh, để nhường ngôi cho
con gái là Lý Chiêu Hoàng, rồi dựng ra một đám cưới giữa Chiêu Hoàng (7
tuổi) và Trần Cảnh (8 tuổi) là cháu ruột mình để Lý Chiêu Hoàng trao mọi
quyền lực vào tay chồng. Ngay sau đó ông ra chùa Chân Giáo buộc Huệ Tông
(lúc bấy giờ là Huệ Quang đại tự) phải tự vẫn chết khi mới tròn 33 tuổi
(*):
Nhà Lý đổ, chấm dứt một thời trị vì hơn 200
năm, trải qua tám đời (Lý bát đế), Trần Thủ Độ lấy mẹ đẻ của Lý Chiêu
Hoàng là Trần Thị Dung. Cuộc hôn nhân tưởng sẽ hoá giải được xích mích
giữa hai dòng họ, triều vua, ai ngờ, với chiêu thức “nhổ cỏ nhổ tận
gốc”, nên khi biết các tôn thất nhà Lý hàng năm vẫn tụ tập hội họp tại
ngôi nhà lớn ở hoa thôn Thái Bình để giỗ tổ, Trần Thủ Độ đã bí mật cho
đặt cả hệ thống dây chằng, xích sắt… cột trụ để giật sập nhà, giết chết
cả 300 quan tài tướng giỏi của triều cũ để họ hết bề làm phản. Hiện mộ
chôn tập thể vẫn còn ở thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh (gần
khu vực cầu Đuống, Hà Nội).
Thật là một tội ác tày trời mà sử sách Việt
Nam muôn đời ghi khắc.
Chưa đủ, sau 7 năm đặt cháu lên ngai vàng
thấy Trần Cảnh vẫn không có con nối dõi, Trần Thủ Độ liền cưỡng ép Trần
Cảnh phải lấy chị ruột của vợ mình là Thuận Thiên, khi đó Thuận Thiên
(vợ của Trần Liễu - anh trai Cảnh) đã có mang 4 tháng. Còn Chiêu Hoàng,
nếu muốn ở lại trong cung thì phải lấy Trần Liễu… . Không chịu nổi việc
đảo lộn luân thường đạo lý: Em rể lấy chị dâu, anh chồng lấy em vợ như
vậy nên sau khi ngửa cổ than: “Trời ơi, đến bậc dân thường còn hiểu điều
phải quấy, huống chi bậc đế vương. Sao có chuyện thương luân bại lý như
vậy”. Lý Chiêu Hoàng bỏ ra chùa Trấn Quốc…
Bản thân Hồ Chí Minh quyết định học theo tấm
gương đại gian đại ác này, hy vọng “đem
lại vinh quang cho dân tộc về cả văn minh và đời sống”.
Vì thế suốt thời trai trẻ để đạt được ý đồ “đảo lộn Sơn Hà” ông đã không
bỏ qua bất cứ một thủ đoạn độc ác nào. Từ việc mượn danh Nguyễn Ái Quốc
của nhóm ngũ Long để tạo lập uy tín cho mình đến việc mật báo với chính
quyền thuộc địa bán đứng cụ Phan Bội Châu (6-1925) để lấy 150.000 quan
và toàn bộ tổ chức Tâm tâm xã cũng như uy tín tên tuổi của cụ, rồi mượn
tay Pháp tiêu diệt thẳng tay cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc
dân Đảng để họ không xâm phạm ngôi bá chủ của mình. Còn chiếm tên Hồ Chí
Minh của ông Hồ Học Lãm (một nhà ái quốc lừng danh lưu vong sang Tàu)
cùng toàn bộ tổ chức “Thanh niên Cách Mạng đồng chí hội” của ông để phô
trương thanh thế, khi bị con gái ông Lãm phát hiện đã bí mật cho người
thủ tiêu trên đường bà này về thăm quê ở Thanh Hoá.
Cũng vì học gương thoán ngôi, đoạt quyền của
Trần Thủ Độ, ông còn thẳng tay đàn áp tất cả các đảng phái không đi theo
con đường vô sản, tuyệt diệt dân tộc của ông. Trang sử vàng Việt Nam
hiện nay vẫn còn lưu giữ những bí mật lớn. Tại sao Lê Hồng Phong, Trần
Phú, Nguyễn thị Minh Khai, Hà Huy Tập… lại bị Pháp bắt và phải nhận bản
án tử hình? Tại sao cụ Huỳnh Thúc Kháng - chủ tịch lâm thời của nước
Việt Nam dân chủ cộng Hoà, Lâm Đức Thụ - người đã cùng bày mưu tính kế
với ông trong việc bán đứng Phan Bội Châu, cũng là người đưa ông về ăn ở
hàng năm trời tại nhà rồi giới thiệu Tăng Tuyết Minh - là bạn thân của
Lý Huệ Quần (vợ Lâm) thành vợ ông (10-1926), lại bị thủ tiêu ngay sau
thời điểm cách mạng tháng tám thành công? ? ? Chừng nào những câu hỏi
loại này chưa được giải đáp thì hình búa liềm của Đảng trên nền cờ đỏ
mãi mãi chỉ là hình dấu hỏi trong con mắt các nhà sử học, giới nghiên
cứu, tri thức… mà thôi.
Phần sau ông tự luận tội mình trên trang giấy
trắng:
Không lường sức mình,
không đo tài mình, tôi đã hành động như ông Trần Thủ Độ nên đất nước mới
tan nát, nhân dân ta mới điêu linh, mà đầu mình thì nặng nề không biết
bao nhiêu tội ác, không thể nào tha thứ được.
Tiếp đó ông tự chứng minh sự lầm lẫn do
“không lường sức, không đo tài” của mình:
Cái nhầm tai hại nhất
của tôi là đi theo Cộng sản Mác Xít mà không biết là chủ nghĩa này chẳng
qua chỉ là giả bộ, để đánh lừa giai cấp nghèo mà cướp lấy chính quyền
cho nước Nga khi đó.
Lời trần tình này chứng tỏ rằng ông đã vô
cùng sai lầm khi đưa đất nước theo con đường mà Lênin - người thầy vĩ
đại của nhân dân Liên Xô - đã chọn - thực chất là làm tay sai cho họ.
Tiếp theo ông viết:
Tôi cũng ngay tình mà
dùng những người hợp tác với tôi. Tôi cứ tưởng những người đó quý yêu
tôi, đâu ngờ họ đều là mật thám của Nga sô, vây quanh tôi chỉ là để kiểm
soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường Nga đã vạch sẵn. Họ
đề cao và tâng bốc tôi để khi nào làm điều gì độc ác thì tôi phải chịu
hết trách nhiệm với dân tộc. Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi
hay biết gì, như vụ cải cách điền địa ở Bắc Bộ chẳng hạn, bây giờ nhân
dân có quyền nguyền rủa, oán trách tôi không biết để đâu cho hết.
Thật đau xót cho lịch sử Việt Nam vì đã có
một con người “vĩ đại” như thế cầm đầu, đưa cả dân tộc vào biển thù hận,
chết chóc, tang thương. Một sai lầm của lãnh đạo, cả dân tộc phải trả
giá bằng trăm năm, huống hồ ông trực tiếp đưa đất nước hết từ sai lầm
này đến sai lầm khác, nào cải cách ruộng đất, nào cải tạo công thương
nghiệp, nào tư hữu hoá toàn Quốc, nào thành lập hợp tác xã nông nghiệp
v. v... và v. v... làm gì
đất nước chẳng tan nát, nhân dân chẳng
điêu linh
như lời ông thú nhận… Chưa kể, ông còn mắc tội hiếu chiến, hiếu sát, dìm
cả dân tộc vào trong biển máu, từ phong trào xô viết Nghệ tĩnh
1930-1931, đến chiến dịch Mậu Thân 1968… máu chảy một giây, di hoạ đủ
một đời. Máu của người dân Việt Nam chảy thành sông thành suối, ròng rã
suốt nửa thế kỷ, từ khi “đời ta có Đảng”, đến khi Miền Nam bị “phỏng
giái”, thì di hoạ biết bao nhiêu mà kể xiết? Chính vì thế nên ông mới
viết:
Dù sao tôi vẫn là người
có tội, tôi không dám chối cãi, chỉ dám mong lịch sử sau này xét kỹ cho
tôi mà đừng lên án tôi quá nặng nề.
Kể hết tội của mình với dân nước rồi, ông bắt
đầu “tố khổ”:
Đầu năm 1963, hồi đó tôi
còn chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân viên
Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn
rất đẹp để tặng cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó,
tôi có chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để
hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân
giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người.
Truyện này lộ ra, làm cụ
Ngô bị giết trong Nam, còn ở ngoài Bắc thì tôi bị kiểm soát rất khắt
khe, không có quyền quyết định điều gì nữa cả.
Điều này đúng như thực tế đã diễn ra trong
bối cảnh Việt Nam lúc ấy, ông đã bị vô hiệu hoá, nói chính xác hơn trở
thành con rối trong tay hai kẻ tội đồ của dân tộc là Lê Duẩn, Lê Đức
Thọ. Di thư của ông nói rõ lý do vì sao ông chưa đi gặp Các Mác Lê Nin:
Đáng lý ra tôi có thể bị
giết ngay từ hồi đó rồi, nhưng tên tuổi còn được thế giới biết đến, nên
họ còn phải lợi dụng mà để tôi sống thêm. Tôi đã già rồi, râu tóc đã bạc
mà còn phải sống trong cảnh tù giam lỏng, cứ nghĩ đến điều này làm tôi
ứa nước mắt. Họ đã không giết tôi nhưng sai ông Bác sĩ Tôn thất Tùng cho
tôi uống thuốc độc để tôi không thể đi đâu được nữa, mà cũng không thể
tiếp xúc với những người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết ngay, nhưng
là chết dần, chết mòn, ở biệt lập một nơi để đợi ngày tắt thở. Thật cũng
tiếc, khi về già, biết mình sai lầm, muốn chuộc lỗi mà không được nữa.
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.
Đoạn đầu cách mạng ông đã “cách” không biết bao nhiêu “mạng” của đồng
chí mình, hoặc mượn tay Pháp, hoặc phái tay chân… để thực hiện ý đồ của
mình hòng độc chiếm ngôi vị bá chủ, nên chặng cuối cách mạng, tự ông
phải nếm mùi oan trái. Vì gieo gió ông đành phải gặt bão, dù có muốn
tránh bão cũng không được.. Cơn bão của lòng hận thù, đau xót của bao
nhiêu người đồng chí hướng với ông - đã mượn tay hai kẻ độc đoán chuyên
quyền - học trò xuất sắc số 1 - là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ để trút xuống
đầu ông, “cách” dần cái “mạng” già của ông.
Phần cuối di thư ông viết:
Trước khi viết phần cuối
của tờ di chúc này, tôi xin thú nhận, tôi là một người không phải thần
thánh gì nên khi tôi còn sống cũng đủ “bảy tình” như kinh nhà Phật đã đề
cập. Tôi không có vợ, nhưng cũng có được đứa con gái lai Pháp. Tôi ước
mong con gái tôi, khi đọc tờ di chúc này sẽ tha thứ cho tôi đã không đủ
bổn phận làm cha, nhưng phụ tử tình thâm, tôi luôn nhớ tới con gái tôi
với muôn vàn âu yếm.
Theo ông Nguyễn Thế Kỷ: Người được “Bác Hồ”
ủy quyền giao cho giữ tờ di chúc đặc biệt này là Vũ Kỳ, thư ký riêng của
bác. Năm 1980 ông Kỷ được người nhà bảo lãnh sang Pháp. Thời kỳ đó sang
các nước tư bản còn là điều hiếm, vì thế ông đã được Vũ Kỳ bí mật gặp gỡ
và trao vào tay tờ di chúc này, với lời dặn vô cùng quan trọng: Phải tìm
bằng được đứa con gái ông Hồ tại Pháp, khi đó cũng sấp sỉ ở độ tuổi trên
dưới 65 để trao tận tay lá thư này. Nhờ thế đến năm 1981, Kiều bào Việt
Nam mới biết đến di chúc thật của Hồ Chí Minh, hoàn toàn khác với các di
chúc đã được công bố trong nước.
Tiếp đó ông viết:
Ai cũng tưởng tôi là con
người vô thần, nhưng riêng Đức cha Lê Hữu Từ thì biết tôi rất tin có
Đấng Tạo Hoá. Vì tin có ông Trời nên tôi xin khẩn cầu cho nước ta và các
nước Cộng sản khác trên thế giới sớm thoát ách Cộng sản.
Tôi cũng xin ông Trời
cho tờ di chúc này có ngày được phổ biến khắp nơi…
Điều ông mong ước tròn một giáp sau đã thành
hiện thực. Tất nhiên nó được phổ biến ở những nơi mà ách cộng sản đã bị
tiêu diệt, riêng Việt Nam, người dân đã thuộc làu những bản di chúc khác
của ông, còn bản quan trọng này thì chưa hề tồn tại trong ý nghĩ họ.
Chính vì thế mọi cuộc tranh luận trở nên vô cùng vô bổ và tội nghiệp -
không tránh khỏi cảnh va chạm xích mích, chụp mũ lên đầu nhau vì cuộc
đời thực của ông ở quốc nội chưa hề được hé mở. Người ta chỉ biết đến
một Hồ chí minh có công giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân
Pháp mà không biết đến một Hồ - chính mi - một kẻ đưa đất nước vào con
đường làm tay sai cho Nga Sô và Trung cộng, cho chủ nghĩa Mác Lê Nin
chuyên quyền bạo ngược và nhà nước xã hội chủ nghĩa bưng bít, lọc lừa…
Trước khi khép lại bản di
chúc ông tiếp tục bày tỏ lòng hối hận của mình:
Cuối cùng, tôi xin lẩy
Kiều, mượn tạm hai câu thơ của cụ Nguyễn Du để tỏ lòng hối hận trước cao
xanh:
Rằng con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng
cam
Hà Nội 14-8-1969
Tên ký:
Hồ chí Minh
Tất nhiên tội của ông còn nhiều hơn hẳn những
gì ông tự nhận. Tình cảnh ông giống như con chim sắp chết, mới chỉ thốt
ra tiếng kêu thương, mà chưa thốt ra đầy đủ những lời nói thật. Bằng
chứng là ông không đề cập gì đến chuyện bà Nguyễn thị Xuân và cậu Nguyễn
Tất Trung. Chẳng lẽ khi đã tự cho mình thoát ách Cộng sản để viết di
chúc này, ông vẫn sợ uy quyền của bộ chính trị, chờ xin ý kiến chỉ đạo
của họ mới dám công khai chuyện tày đình này sao? Hay sợ nói ra thì
sấm sét búa rìu cũng không buông tha,
bắt ông phải lửng lơ mãi mãi trên trần thế? 36 năm rồi vẫn không được về
với cát bụi, được siêu thoát như người bình thường để gặp được cha, mẹ
họ hàng? Hay chí ít cũng là hai bậc tiền bối cách mạng, chuyên bói ra hư
vô và quét nhà ra xác chết! Kể từ khi ngôi nhà xã hội chủ nghĩa được xây
trên dải đất đau thương hình chữ S này, có không biết bao nhiêu là xác
chết? Chắc chắn nó phải chiếm tới 1/8 đến 1/10 dân số hiện nay…
Bản di chúc này cũng là bản tổng kết một phần
cuộc đời lầm lạc vĩ đại của ông. Không làm được như Trần Thủ Độ:
Gây nên cơ nghiệp hiển hách của nhà
Trần, đuổi giặc Nguyên, đem lại vinh quang cho dân tộc về cả văn minh và
đời sống, ông mới chỉ làm được như Trần… Thủ đoạn, đảo lộn
sơn hà, đưa dân nước vào ách cộng sản, để rồi cuối đời khi nhận ra
đất nước tan nát, nhân dân điêu linh
thì tất cả đã muộn… Ách cộng sản độc tài, chuyên chế mãi còn đè nặng
trên cổ người dân Việt Nam yếu ớt u mê, cho dù gần 200 nước khác trên
thế giới đã thoát ra được như lời mong ước của ông:
Vì tin có ông trời nên tôi xin khẩn cầu
cho nước ta và các nước Cộng sản khác trên thế giới sớm thoát ách Cộng
sản
**.
Không hiểu vì trời không có mắt nên 81 triệu
người dân Việt Nam còn phải sống mãi trong cảnh đêm trường nô lệ, “đêm
giữa ban ngày” dưới ách thống trị của Đảng cộng sản? Hay vì Dân tộc Việt
Nam đã sai lầm khi đẻ ra một vĩ nhân cho nên phải chịu hậu quả nhỡn tiền
của việc đẻ ra vĩ nhân đó?
Long Thành 10-2005
N. T. H
|