Thứ Tư, 2024-12-18, 9:39 AM
Welcome Guest | RSS

Dân Chủ Cho Việt Nam

Main » 2008 » Tháng Chín » 4 » Việt Nam Đã và Đang Mất Dần Nhân Tài
10:54 PM
Việt Nam Đã và Đang Mất Dần Nhân Tài

» Tác giả: Tâm Ngọc

1. Việt Nam Đã và Đang Mất Dần Nhân Tài


Nhân tài, tiềm lực quan trọng chẳng khác gì các tài nguyên khác của quốc gia, đã và đang bị hủy diệt bởi đường lối chính trị của các nhà lãnh đạo Việt Nam đương thời. Trước đây, nếu những người yêu nước dưới lá cờ Cộng Sản cho rằng họ chiến đấu chống ngoại xâm để bảo vệ rừng vàng, biển bạc cho đất nước và giành quyền tự do độc lập cho nhân dân thì ngày nay chính họ là những người hủy hoại những tài nguyên này của quốc gia kể cả chất xám, một nguồn lực vô giá của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, không biết bao nhiêu tiêu đề về “chảy máu chất xám” được đề cập trong các ban ngành, trên báo chí và các diễn đàn của Việt Nam. Đã có nhiều bài biếm nhẽ về sự tham tiền của các du học sinh không chịu trở về nước phục vụ sau khi tốt nghiệp ở nước ngoài, nhiều bài phân tích về nguyên nhân thất thoát chất xám và nhiều bài bàn luận các phương cách thu hút những nhân tài trở về nơi sinh quán. Tuy nhiên, bất kể lời trách móc thâm thúy hay cay đắng như thế nào, sự bàn bạc về cách thức chiêu dụ lòng yêu nước qua “Hòa giải hòa Hợp”, “Đóng góp cho đất Nước” và “Chiêu hiền đãi sĩ” sôi động ra sao, dòng chảy của chất xám Việt Nam vẫn tuôn trào ra ngoài, không thể quay ngược lại và đất nước tiếp tục mất dần nhân tài dưới nhiều hình thức khác nhau.


Sau chiến tranh 1975, Việt Nam đáng phải được phát triển thành một nước giàu mạnh và vượt bậc bởi sự hợp tác của tất cả những người dân của hai miền, đã trở thành một nơi tàn phá nhân tài một cách khốc liệt. Khác với các nước sau chiến tranh khác, chủ nghĩa cộng sản mà những người lãnh đạo bắt toàn dân nước Việt tuân theo đã tiêu hủy không biết bao nhiêu chất xám trong các trại học tập cải tạo, trong các chuyến trốn ra nước ngoài và trong lòng biển. Nếu sau ngày đất nước bị chia đôi năm 1954, miền Nam tiếp nhận một số lượng nhân tài của miền Bắc do các chuyến di cư vào Nam thì sau ngày đất nước thống nhất, nhiều nhân tài của cả nước mất dần sau những chuyến vượt biển. Sau khi Cao Ủy Tị Nạn liên Hiệp Quốc quyết định đóng cửa các trại tị nạn, làn sóng trốn ra khỏi nước của thuyền nhân được ngơi đi, những làn sóng tìm đường ra khỏi Việt Nam qua hình thức lao động nước ngoài, và bảo lãnh theo diện đoàn tụ gia đình vẫn tiếp tục. Các làn sóng ra khỏi nước ồ ạt này có thể coi là hiện tượng người dân muốn thoát khỏi chế độ chính trị không thích hợp hay vì đời sống xã hội đói nghèo và lạc hậu. Nói cách khác, sự ra đi này bởi lý do chính trị hay kinh tế. Ngày nay, hiện tượng du học của học sinh và sinh viên Việt Nam phổ biến đến độ nhiều người phải tự hỏi có phải đây là làn sóng trốn ra khỏi nước vì lý do văn hóa. Trong nước, không ai có thể giải thích một cách đường đường chính chính về hiện tượng này; nhưng, nhà nhà, người người vẫn thi đua tìm cách ra đi. Người nghèo đi theo cách của người nghèo, người giàu đi theo cách của người giàu, người đẹp đi theo cách của người đẹp, và người tài giỏi đi theo cách của người tài giỏi. Đã có biết bao nhiêu chuyến ra đi qua đăng ký lao động nước ngoài, qua giấy tờ bảo lãnh theo diện hôn phu thật lẫn giả, và qua du học. Nhiều phụ huynh giàu có ở Việt Nam đã tìm cách đưa cho con ra nước ngoài học ngay từ bậc trung học để cho con họ thoát chế độ thi vào Đại Học, sớm có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài và có cơ hội gặp người bản xứ cho cuộc hôn nhân về lâu về dài. Đáng để ý nhất là các học sinh, sinh viên giỏi do nhà nước tổ chức cho du học ở nước ngoài. Những người này thường tìm cơ hội định cư tại các quốc gia mà họ học xong chứ không chịu trở về nước. Không kể thành phần con cán bộ giàu có bị rớt Đại Học và bị cha mẹ tống ra khỏi nước để tránh tình trạng lông bông chơi bời hút xách, luồng nhân tài Việt Nam ra khỏi nước ngày càng nhiều. Đa số là những người trẻ và số lượng rất đông. Vì hiện tượng “Chảy máu chất xám” khá phổ biến ở Việt Nam, trở nên vấn đề tranh cãi và bàn luận sôi động. Trong lúc nhiều ý kiến đổ lỗi cho thủ tục rườm rà, hệ thống tuyển chọn không minh bạch, môi trường làm việc không tốt, lương tiền thấp kém và chế độ ưu đãi không đúng mức; một số ý kiến khác qui tội phản Tổ Quốc, không yêu nước, ham danh phận và lo ấm thân cá nhân. Nếu hiện tượng vượt biển bị kết tội là vọng ngoại, vong bản, hiện tượng lấy chồng ngoại quốc bị cho là ham giàu và hiện tượng du học và định cư sau du học bị cho là vị kỷ, ham sang giàu thì phải chăng Việt Nam từ sau năm 1975 cho đến nay đã sản sinh quá nhiều kẻ phản bội Tổ Quốc? Hay là người dân Việt đã và đang tìm cách cứu tương lai cho họ và gia đình họ? Phải chăng những hào nhoáng bên ngoài của chính sách cởi mở, cải cách, và sửa sai chưa không đủ sức thu phục lòng tin của người Việt sau nhiều năm chiêm nghiệm thực tế. Sự tìm cách đưa con cháu hay cả gia đình ra khỏi nước bằng nhiều hình thức khác nhau của người dân Việt đã chứng minh các chính sách đang thực hiện trong nước dù thay đổi, mở hay cởi bao nhiêu vẫn không phát triển được tài năng của con cháu họ. Việc âm thầm đưa con ra khỏi nước của người dân Việt đã chứng minh hùng hồn thực hiện phương cách “Anh muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm; tôi chỉ nghe vậy nhưng làm theo cách của tôi”.  Đây là một sự thật phũ phàng mà chính giới lãnh đạo Việt Nam không thể nào phủ nhận nếu họ thực sự đối diện với lương tâm của họ. Điều buồn cười là chính họ cũng tuồn con cháu họ ra nước ngoài du học để tìm đường tiến thân hay định cư.


Sự thất thoát nhân tài do chế độ phong kiến vẫn còn tồn tại ở Việt Nam. Mặc dù phê phán chế độ độc đoán của thời quân chủ phong kiến, chế độ phong kiến biến dạng của Cộng Sản không khác nào lối “Ý vua là ý trời! Nghịch ý vua là xử chém!” của thời vua chúa xa xôi. Áp dụng chế độ độc đảng, độc quyền theo kiểu phong kiến biến dạng để kiểm soát tư tưởng của người dân, điều khiển hành động của người dân và thống trị đời sống tinh thần nhân dân, giới lãnh đạo Việt Nam đã bóp chết nguồn chất xám ngay trong cái nôi của nó. Đã có biết bao nhiêu nhân tài đề cập trung thực chuyện “ở truồng của vua” nhưng vua vẫn khăng khăng là đang mặc chiếc áo đẹp. Rốt cuộc cho việc phủ nhận này là những nhân tài như tiến sĩ Nguyên Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), nhà báo Nguyễn Vũ Bình, kỹ sư Đỗ Nam Hải, luật sư Lê Chí Quang, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhân hoặc bị kiểm điểm hoặc bị cô lập, quấy rối, hành hung hay giam cầm. Tiếc thay cho Việt Nam của chúng ta! Những người tài như thế đáng ra phải có cơ hội phục vụ cho sự phú cường và độc lập của đất nước, trí tuệ và tuổi xuân họ đều bị tàn phá và tiêu hao!


Nhật Bản không được thiên nhiên ưu đãi như Việt Nam nhưng là một cường quốc hàng đầu của châu Á với một tiềm lực kinh tế hàng đầu của thế giới. Là một quần đảo trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như núi lửa động đất, dân tộc Nhật đã đưa nền kinh tế và đời sống xã hội của họ ngày càng cao. Vì ý thức được mức kìm hãm của chế phong kiến và những liên quan, Minh Trị Thiên Hoàng đã dứt khoát xóa hẳn những hệ lụy của chế độ này và xúc tiến việc duy tân cho đất nước theo phong cách Âu Mỹ. Do phong trào du nhập và áp dụng phong cách làm việc, luật pháp, phong tục, chế độ giáo dục và thương mại theo lối Âu Mỹ, Nhật Bản đã phát triển đồng bộ các ngành quan trọng cho đất nước. Bằng đường lối chính trị không Cộng Sản, Nhật đã phát triển được nguồn chất xám của Quốc gia trong nhiều mặt mà đặc biệt nhất là trong ngành công nghiệp. Chính tiềm lực nhân tài này đã khống chế điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và đưa đất nước họ trở nên độc lập, phú cường.


Mỹ giàu có bậc nhất trên thế giới không phải chỉ vì được thiên nhiên ưu đãi mà vì đường hướng chính trị kinh tế xã hội theo lối dân chủ. Sau nội chiến, khác với chế độ lý lịch và phân biệt của đường lối Cộng Sản tại Việt Nam, các điều luật trong hiến Pháp Mỹ đã bảo vệ quyền lợi công dân một cách bình đẳng và công bằng. Ngoài những việc xây dựng đất nước sau chiến tranh, sử dụng tài nguyên vốn có một cách hợp lý, và áp dụng phương thức làm giàu cho đất nước một cách hiệu lực, Mỹ còn đầu tư và phát triển chất xám cho tương lai đất nước một cách tối đa. Nếu trước nội chiến (1861- 1865) Mỹ chỉ có 100 trường trung học công lập thì sau 15 năm(1880) số lượng trường trung học công lập của Mỹ tăng lên đến 800. Sau chiến tranh, Việt Nam có bao nhiêu phần trăm học sinh đến lớp? Trong thời gian 32 năm, Việt Nam đã xây dựng thêm bao nhiêu trường công lập? Và hiện nay đất nước có bao nhiêu phần trăm trẻ em cắp sách đến trường?


Xã hội nghèo nàn và giáo dục lạc hậu cũng là nguyên nhân Việt Nam mất nguồn chất xám. Vì kế sinh nhai của gia đình, nhiều trẻ em Việt Nam hiện nay không thể cắp sách đến trường. Đáng lẽ phải ở lớp trong giờ học, các em lang thang với những xâu bánh, thỏi kẹo, và vé số gọi mời khách mua. Đáng lẽ phải được bắt buộc đến lớp học miễn phí và công bình, lối học kèm dạy thêm và tiền học phí cao trở thành những tấm rào cản cho việc phát triển trí thông minh của các em. Sự âm thầm chịu thua thiệt của các em là hiện tượng nguồn chất xám của tương lai đất nước đang bị hủy hoại dần theo cảnh cơ hàn và sự chênh lệch khá lớn giữa giàu và nghèo trong xã hội. Khác với Việt Nam, Mỹ là một nước tự do nhưng không có nghĩa là trẻ em Mỹ có quyền tự do không đi học. Ngoài những trường hợp đặc biệt do phụ huynh yêu cầu tự dạy cho con ở nhà sau khi nhận chương trình học hay cho con vào các trường tư thục, các trẻ em Mỹ đều được học miễn phí tại trường công lập và đều phải đến trường. Ngay cả những trẻ em khuyết tật hay có yêu cầu đặc biệt cũng được chu cấp giáo dục đầy đủ và hoàn thiện. Ở Mỹ, phụ huynh nghèo cần trợ cấp tài chính, thực phẩm, y tế hay nhà ở đều phải có giấy chứng thực là con họ đang học ở trường mới có thể nhận được những phục vụ này. Nếu trẻ em Mỹ lảng vảng ngoài đường trong thời gian học từ khoảng tám giờ sáng đến ba giờ rưỡi chiều, sẽ bị cảnh sát chất vấn và đưa trở lại trường ngay. Ở Việt Nam, các em được đến trường phải chịu lối giáo dục áp đặt theo đường hướng yêu chủ nghĩa Xã Hội. Vì phải tiếp thu kiến thức đã được đặt sẵn và trả lời bài làm theo những điều đã định, các em này không thể nêu nhận định một cách thành thật sau khi phán xét và suy luận.  Các em phải đồng ý theo sự khinh ghét giai cấp giàu có, đề cao giai cấp công nông và căm thù kẻ địch qua các bài văn học, lịch sử và đạo đức Việt Nam. Ngoài ra, các em còn phải coi trọng chủ nghĩa Max Lê Nin và tôn sùng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh như một chân lý sống tuyệt đối. Có thể nói trường học Việt nam như là những cái khuôn nhào nặn các khối óc non trẻ theo một kiểu nhất định chứ không tạo điều kiện cho học sinh tính độc lập suy nghĩ và phát triển trí thông minh sẵn có. Không như cách thức đào tạo của trường Việt Nam, các trường học ở Mỹ hay ở các nước dân chủ tạo điều kiện cho học sinh học hỏi, tham khảo, và nhận định về các lý thuyết xã hội chính trị và tính cách cá nhân của các vị lãnh đạo của nước họ hay của các nước trên thế giới một cách độc lập và tự do. Có biết bao vị tổng thống Mỹ cống hiến tài năng và sức lực cho đất nước họ trở nên phú cường và đời sống xã hội của họ ngày càng cao nhưng có vị nào được nêu danh, thần tượng hóa như lãnh tụ Hồ Chí Minh của Việt Nam? Hơn thế nữa, sau nội chiến, Mỹ tôn trọng những di tích lịch sử của quốc gia chứ không áp đặt mọi người khẳng định ai địch ai ta hay ai phải ai trái.  Nhờ quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí đã có nhiều cuốn sách lịch sử và tài liệu ghi lại trung thực những sự kiện trong quá khứ. Đây là những nguồn tham khảo quý giá giúp cho giới trẻ Mỹ thấu hiểu những gì đã xảy ra trong nước họ cũng nhu trên thế giới. Đồng với sự lợi ích của quyền tự do này, lối học tìm hiểu, phân tích và rút ra kết luận giúp cho học sinh Mỹ có thể phát triển tư duy một cách độc lập và thông minh. Do những lẽ này mà các lãnh vực giáo dục, nghiên cứu và khoa học của Mỹ phát triển nhanh và mạnh.


Dù bộ giáo dục Việt Nam cố gắng thực hiện mục tiêu đào tạo những con người yêu Xã Hội Chủ nghĩa như thế nào, vẫn không thể thành công vì sự mâu thuẫn giữa lý thuyết trong nhà trường với những chuyển biến mới của sự chênh lệch giàu nghèo của xã hội Việt Nam hiện nay. Thêm vào đó, sự tìm hiểu thế giới bên ngoài qua hệ thống thông tin toàn cấu đã làm lớp người trẻ Việt nam không còn tin vào những gì chúng học trong nhà trường và tỏ ra thờ ơ khá nhiều với lịch sử nước nhà. Sự mất lòng tin đối với đường lối giáo dục của Việt Nam không những đã hủy diệt tính ham học của thế hệ trẻ mà còn tạo nên sự bất mãn ghê gớm trong lòng phụ huynh. Dưới áp lực thi cử của đại học, phụ huynh đã tốn không biết bao nhiêu công sức đưa đón các con họ từ các lớp học thêm rồi cuối cùng phải tìm đường cho con ra nước ngoài học tập.Trong khi những phụ huynh có điều kiện tài chính tuồn con ra khỏi nước, phụ huynh nghèo đã để con họ thất học ngay tại bậc tiểu học. Trong khi nhiều lớp mở ra cho bậc trung học và đại học thì các lớp ở bậc tiểu học giảm dần đi. Dưới hai hình thức này, các trường học Việt Nam dần dần ở dạng đầu voi đuôi chuột. Trong khi các em nhỏ không được đến trường khiến nguồn thông minh từ những bộ não non nớt ấy bị giết lần mòn, còn những em đến trường thì vô hướng sau khi tốt nghiệp.


Các nhà quản lý giáo dục Việt Nam không phát triển được nguồn nhân tài lớn rộng của đất nước vì không tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển một ngành giáo dục ngang tầm với chương trình giáo dục quốc tế.  Do tham nhũng, hối lộ và phe cánh, việc xây dựng trường học, phát triển trang thiết bị và lương giáo viên thực hiện một cách trì trệ và hình thức. Trong khi các em học sinh ở Việt Nam phải chịu cảnh thiếu lớp thiếu trường, thiếu lớp và trang thiết bị thiếu chất lượng hàng năm, các trường ở Mỹ phải chuẩn bị chu đáo cho sự xét duyệt phẩm chất trước ngày khai giảng. Không chỉ những người chịu trách nhiệm trong ngành giáo dục mà ngay cả các giới lãnh đạo trong các ban lãnh vực khác của Mỹ cũng quan tâm đến sự phát triển nhân tài trong nước họ. Các phong trào và đạo luật “Xây dựng một đứa trẻ cần sự hợp tác của một cộng đồng”, hay “Không để một đứa trẻ nào bị thua thiệt” đã huy động thầy cô giáo, những câu lạc bộ dạy thêm, những công tác thiện nguyện đã giúp đỡ cho nhiều em học sinh có điều kiện học, học giỏi và phát triển trí thông minh. Trong các bài báo và sách vở của nước Cộng sản, các nhà đại tư bản kếch xù Mỹ thường bị kết án là giai cấp bóc lột; thực tế, họ là những người đóng góp rất nhiều trong công tác trợ cấp xã hội qua việc đóng thuế lợi tức cá nhân. Các tỉ phú như vua dầu Rockefeller, vua thép Andrew Carnagie, và vua điện toán Bill Gate đã cống hiến số lượng tài chính đáng kể cho các phúc lợi xã hội Mỹ như xây trường học, bệnh viện, thư viện, đại sảnh dành cho phòng hội họp, và các trang thiết bị quan trọng khác cho các phòng thí nghiệm trong các trường học. Nhờ những đóng góp tài chính và những công tác thiện nguyện này mà Mỹ phát triển nhân tài ngày càng nhiều hơn. Hiện nay, Việt Nam có nhiều người giàu đến độ không ai hiểu đất nước còn tiến lên chủ nghĩa Cộng Sản hay đang ngược về xã hội tư bản. Dù ở hướng nào, những người giàu trong xã hội Việt Nam hiện thời cũng được mang danh là giới tư bản đỏ. Trong lúc giới này thi đua phát triển ngành du lịch như xây dựng các nhà hàng, khách sạn, quán rượu, chỗ nhảy đầm, sân golf, trường đua ngựa... thì ngành giáo dục cho sự phát triển công nghiệp hoá không hề được quan tâm. Trong khi các bậc cha anh nhậu nhẹt ăn chơi bàn tán những mối lợi về các tổ chức ca nhạc, trình diễn thời trang, tuyển chọn ca sĩ, tuyển chọn hoa hậu... thì các chất xám trẻ lang thang trên các vỉa hè gọi mời người mua thuốc lá, mua đậu phọng, mua kẹo cao su, hay mua vé số... Thử hỏi nguồn chất xám của tương lai Việt Nam sẽ đi về đâu?


Chính vì đường lối chính trị nhập nhằng, kinh tế đình trệ và xã hội mâu thuẫn mà nguồn chất xám của đất nước bị mất dần đi. Sau thời gian cấm vận, một số người trốn ra khỏi nước trước đây tin rằng Việt Nam đã thực sự đổi mới, quyết định quay về góp phần xây dựng đất nước, nhưng sau đó đã chán nản rút lui vì những thực tế không tốt đẹp như họ tưởng. Những người này thường lớn tuổi, số lượng ít ỏi và ngày một giảm dần đi. Nếu ngay sau thời gian cấm vận, người Việt ở Hải Ngoại nghĩ đến sự góp kiến thức học hỏi ở nước ngoài để xây dựng đất nước bao nhiêu thì ngày nay họ không còn tư tưởng ấy nữa. Có người nói rằng “Trước đây tôi nghĩ là sẽ về Việt Nam làm việc và sống cho đến chết nhưng về nước thấy cung cách làm việc chẳng tiến bộ gì tôi thà ở xứ người mà thấy giúp ích hơn. Người khác tuyệt vọng rằng: “Còn lâu lắm! Họ mạnh quá mà! Phải thêm một đời nữa, một thế hệ nữa thì may ra đất nước ta mới có Dân Chủ! Ngày đó chắc chúng ta cũng chết hết rồi!” Người khác chua chát hơn: “Muốn về Việt nam làm việc hay ở phải có tiền. Nhưng tiền chỉ đủ làm vừa lòng một người mà không làm vừa lòng nhiều người khác thì đâu sống nổi. Chẳng thà ở nước có Dân Chủ, có luật lệ hẳn hoi, không bị ai bắt chẹt, sống an toàn hơn!” Đa số đều than van về vẻ giả tạo khang trang của đất nước, về sự khăng khăng cố chấp của những người lãnh đạo đất nước và những chính sách cực đoan làm mất nguồn nhân tài. Thực tế, nhiều trí thức ở Việt Nam có tài nhưng không có Đảng đều không được sử dụng hay sử dụng một cách không thích đáng.Trong khi đó, những cán bộ có bằng cấp tại chức, đến sở để nhận lương Nhà Nước chứ không hề  giúp ích gì cho sự phát triển một nền khoa học hiện đại, một nền kinh tế công nghiệp ngang tầm với thế giới. Vì đường hướng nửa nạc nửa mỡ, giới lãnh đạo Việt Nam đã không tạo được sự tin tưởng và lôi kéo lại nguồn chất xám đã mất mà còn tuồn cho các công ty lớn của nước ngoài ngay tại trong nước một số lượng khá lớn. Sau khi trở về nước, các du học sinh Việt Nam thường kiếm việc làm ở các công ty nước ngoài vì mức lương và chế độ ưu đãi hậu hỉ hay chỉ làm cho các cơ quan Nhà Nước một thời gian rồi cũng chuyển sang làm việc cho các công ty nước ngoài như Nam Hàn, Nhật, Pháp, Úc... vì chán chê với lối làm việc quan quyền, phe cánh, hối lộ và tham nhũng của các quan chức Việt Nam. Nếu trước đây luồng nhân công lao động Việt Nam tình nguyện sang các nước Xã Hội Chủ Nghĩa và các nước dân chủ khác làm việc để mưu sinh cho gia đình thì ngày nay những công ty lớn của nước ngoài đầu tư thu hút nguồn nhân công rẻ mạt và nguồn nhân tài từ số du học sinh ngay tại nước Việt Nam một cách dễ dàng và thuận lợi. Đây có thể coi là máu chất xám của Việt Nam chảy vào các nước khác ngay ở trong nước. Điều đáng buồn cho hiện tượng này là nguồn tài chính đầu tư cho những sinh viên du học đã bị lấy mất và sự thông minh của người Việt Nam bị sử dụng bởi các quốc gia khác qua các công ty của họ. Cứ như thế, dân tộc ta suốt đời mãi chịu kiếp làm thợ làm công chứ không bao giờ có cơ hội làm chủ để có cơ hội đưa nền kinh tế đất nước mở mang, phát triển và độc lập. Phải chăng giới lãnh đạo của đất nước hiện nay vẫn còn muốn dân tộc gắn bó với “giai cấp công nhân tiên phong”? Phải chăng Đảng và Nhà Nước chỉ muốn dân tộc ta tiếp tục làm nô lệ cho các nước ngoài? Phải chăng sự luồn cúi với các nước lớn là số kiếp mà cả dân tộc chúng ta phải chịu đựng muôn đời? Và phải chăng lòng kiêu hãnh của chúng ta vẫn còn tồn tại khi nhìn những người lãnh đạo đất nước chầu chực các nước lớn để xin xỏ và quỵ lụy điều nọ điều kia trong các chuyến công du của họ?


Đất nước ta chỉ có thể trở thành độc lập và phú cường thật sự khi nguồn nhân tài của dân tộc được bảo tồn, phát triển và sử dụng đúng mức. Muốn thế, Việt Nam cần dứt khoát với những hệ lụy của chế độ phong kiến, những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ và cực đoan. Qua kinh nghiệm của lịch sử trong và ngoài nước, chúng ta cần nhìn thấu đáo mọi sự việc để xét đoán một cách sáng suốt phương cách đưa đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc vào các nước lớn, và được độc lập tự trị như Nhật Bản. Muốn lèo lái đất nước đến chỗ độc lập phú cường, muốn giữ gìn tài sản tinh hoa, và phát triển tinh thần dấn thân cống hiến của cả dân tộc, Việt Nam trước hết cần một nhân tài xuất chúng. Một người vừa có tâm, vừa có tài trong việc lèo lái đất nước theo một hướng mới mẻ và tươi đẹp. Điều này thực hiện sớm hay muộn tùy vào sự can đảm và lòng nhiệt thành của người ấy.


                                                                                      Tâm Ngọc-LTCP56

Category: Việt Nam ngày nay | Views: 1187 | Added by: danchu | Rating: 0.0/0
Total comments: 0
Only registered users can add comments.
[ Registration | Login ]
Login form
Search
Our poll
Đánh giá
Total of answers: 887
Site friends
Statistics

Đang online: 7
Khách: 7
Thành Viên: 0