THAM NHŨNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Trần Hữu Dũng[1]
TÓM TẮT: Mục
đích của bài này là để phân tích những quan hệ giữa tham nhũng và tăng
trưởng kinh tế, chú trọng đặc biệt đến trường hợp các quốc gia cần phát
triển và đang chuyển đổi như Việt Nam. Trước tiên, nó lược duyệt những
hậu quả kinh tế tiêu cực (và vài hậu quả tích cực) của tham nhũng. Sau
đó, nó sẽ đưa ra một số biện pháp chống tham nhũng trên ba bình diện:
giảm động lực tham nhũng, giảm cơ hội tham nhũng, và giảm lợi lộc do
tham nhũng. Bài này cũng phân tích mối liên hệ giữa tham nhũng và vài
vấn đề kinh tế khác.
ABSTRACT: This paper presents an analysis of the relationships between corruption and economic growth,
with special attention to the case of a developing country in
transition such as Vietnam. First, it examines the deleterious (and
some allegedly beneficial) effects of corruption. Next, it suggests
various measures to fight corruption on three fronts: weakening the
motives to corrupt, reducing the opportunities to corrupt, and lowering
the rewards of corruption. The paper also discusses major links
between corruption and other economic goals.
Tham
nhũng là một tệ nạn trầm trọng ở nhiều quốc gia kém mở mang (và một số
quốc gia đã mở mang) trong đó có Việt Nam. Tham nhũng xúc phạm đạo
đức, lũng đoạn xã hội, khơi dậy những nghi vấn nghiêm khắc về thực chất
của chế độ chính trị, đó là những sự kiện ai cũng biết và đã được bàn
cãi khá nhiều. Trong thời gian gần đây, một số tổ chức quốc tế (Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Thế Giới, Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Châu
Âu ...) cũng quan tâm đặc biệt đến tệ nạn này, coi nó là một nhân tố
quyết định trong chính sách của họ đối với các quốc gia đang phát triển.
Điều đáng ngạc nhiên là, cho mãi đến gần đây, những ảnh hưởng kinh tế của
tham nhũng, nhất là trong một quốc gia cần phát triển và đang chuyển
đổi như Việt Nam, ít khi được phân tích chu đáo. Nhiều câu hỏi vẫn
chưa được trả lời một cách thỏa đáng: Tác động kinh tế của tham nhũng
là sao? Bản chất mối liên hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng là thế
nào? Tham nhũng gây chậm tiến hay chậm tiến gây tham nhũng? Kinh tế
thị trường là nguyên nhân hay giải pháp của tham nhũng?
Có
người sẽ cho rằng không cần đi vào chi tiết những câu hỏi ấy bởi lẽ,
theo họ, hậu quả tai hại của tham nhũng là quá hiển nhiên: bài toán bức
xúc là phải làm sao để tận diệt nó. Cũng có người sẽ khẳng định tham
nhũng là một tệ nạn giai đoạn: trong một nền kinh tế đang nhanh chóng
chuyển thể và phát triển thì tham nhũng là khó thể tránh; khi xã hội và
kinh tế đã phát triển thì tệ nạn ấy sẽ đương nhiên giảm đi.
Hai
thái độ ấy (một thì cho rằng phải tận diệt tham nhũng bằng mọi giá, một
thì cho là phải tạm thời chấp nhận tham nhũng) cần được xét lại. Một
mặt, phải thấy rằng chống tham nhũng là một hoạt động đòi hỏi nhiều sức
người, sức của. Do đó, để phân bố hữu hiệu nguồn lực quốc gia, ta cần
quán triệt một cách khách quan, đè nén cảm tính nông nổi, những yếu tố
đưa đến tham nhũng và hậu quả thực sự của hiện tượng này. Mặt khác, ý
kiến cho rằng phát triển kinh tế có thể đi đôi với tham nhũng là một
khẳng định còn thiếu thực chứng, và sẽ rất tai hại cho chính sách nếu
sai lầm. Ta phải nghĩ sao nếu tham nhũng chính nó sẽ làm trì trệ tăng
trưởng hay, nói cách khác, liên hệ giữa tăng trưởng và tham nhũng là
liên hệ hai chiều? Thực vậy, trong bối cảnh hiện nay của nhiều nước
đang phát triển và chuyển tiếp như Việt Nam, Trung Quốc (và, một phần
nào đó, kể cả Nga) . . . tham nhũng là biểu hiện hội điểm của nhiều
biến chuyễn đa nguyên, đa dạng (xã hội, chính trị, lịch sử, kinh tế).
Nó có thể vừa là nguồn gốc, vừa là hậu quả, vừa là cái móc nối nhiều tệ
nạn. Coi tham nhũng như là một đặc tính giai đoạn của một tiến trình
lịch sử đường thẳng, theo tôi nghĩ, là một nhận định sai lầm.
Mục
đích của bài này là nhằm đưa ra một số ý kiến về quan hệ giữa tham
nhũng và tăng trưởng kinh tế, cụ thể là về các câu hỏi đặt ra ở trên.
Đoạn I lược duyệt những tác động kinh tế tiêu cực của tham nhũng, chú ý
đặc biệt đến ảnh hưởng của tham nhũng đến tăng trưởng. Đoạn II phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tham nhũng, từ đó suy ra những
biện pháp giảm trừ tham nhũng. Đoạn III bàn thêm về liên hệ giữa tham
nhũng và những vấn đề kinh tế khác. Đoạn IV là kết luận.
I. NHỮNG TÁC ĐỘNG KINH TẾ TIÊU CỰC CỦA THAM NHŨNG
Cần
nhìn nhận rằng không phải bao giờ cũng dễ xác định hành động nào là
tham nhũng, hành động nào là không. Điển hình: mọi xã hội đều có phong
tục quà cáp, đãi đằng. Đến mức độ nào thì những tập quán đó (khi chúng
liên hệ đến công chức cán bộ) là tham nhũng? Theo một số nhà nghiên
cứu phương Tây [xem Tanzi (1995)] thì tham nhũng là bất cứ hành vi nào
của quan chức dưới ảnh hưởng của liên hệ cá nhân hoặc gia đình, thay vì
hoàn toàn theo tín hiệu thị trường. Tôi cho quan điểm đó là vừa quá
nhỏ hẹp, lại có ý quá tôn vinh cơ chế thị trường, nhưng không tìm được
một định nghĩa vắn tắt và thỏa đáng hơn.
Như đã nói, bài này chỉ chú ý đến tác động kinh tế tiêu
cực của tham nhũng. Có thể xếp các tác động này vào bốn phạm trù: phân
bố nguồn lực, công cụ chính sách và cải cách thể chế, phân hoá giàu
nghèo, và tính truyền nhiễm của nó.
1. Ảnh hưởng đến phân bố nguồn lực
(a)
Muốn một nền kinh tế hoạt động tối hảo thì nguồn lực quốc gia (nhất là
vốn) phải được phân bố cho đúng giữa đầu tư (cho tương lai) và tiêu xài
(cho hiện tại), và hơn nữa, vốn đầu tư phải được phân bố cho đúng giữa
những dự án khác nhau. Vì nhiều lý do, tham nhũng sẽ làm sự phân bố
nguồn lực chệch ngoài cấu trúc tối hảo cho tăng trưởng và phát triển. Một là, trong
một thế giới mà vốn có thể di chuyển khá dễ dàng từ nơi này sang nơi
khác, người có vốn sẽ đầu tư vào những quốc gia ít tham nhũng. Hai là,trong một quốc gia, vốn sẽ chảy vào các khu vực ít tham nhũng. Ba là, nguồn lực nói chung sẽ được tiêu xài cho hiện tại hơn là đầu tư cho tương lai. Bốn là,
những dự án được đầu tư thường là những dự án quá quy mô và phức tạp,
bởi lẽ công trình càng quy mô và phức tạp thì cơ hội tham nhũng càng
nhiều và càng dễ che đậy.[2] Tất cả bốn xu hướng đó có thể đưa vốn vào các mục tiêu, địa phương, hoặc khu vực trái ngược nhu cầu phát triền.
(b)
Tham nhũng sẽ ảnh hưởng đến phân phối tài năng con người. Cụ thể, nó
sẽ đưa đẩy nhiều tài năng vào những hoạt động không ích lợi cho xã
hội. Thứ nhất, một số người sẽ bị thu hút vào các lĩnh vực dính líu
đến tham nhũng (dù chính họ không là tham nhũng) vì thu nhập ở các lĩnh
vực này tương đối khá hơn các lĩnh vực khác. Thứ hai, nhiều doanh nhân
phải tốn công, tốn sức khắc phục các rào cản, thủ tục hành chính do
giới chức tham nhũng dàn dựng, thay vì đưa những công sức ấy vào các
hoạt động sản xuất.
Mặt khác, nhiều chức vụ trọng yếu sẽ vào tay những người thiếu khả năng, gây ra ba hậu quả. Một là, họ sẽ làm nhiều quyết định sai lầm, có hại cho cả nước. Hai là, những người có khả năng sẽ nản lòng phục vụ. Ba là, khi
thế hệ trẻ thấy rằng muốn tiến thân chỉ cần chạy chọt móc nối thì họ sẽ
coi nhẹ giáo dục học đường, làm suy giảm tiềm năng tăng trưởng.
(c)
Tham nhũng sẽ làm yếu đi tác động tích cực của cạnh tranh trong thị
trường. Cụ thể, thế cạnh tranh thị trường sẽ không phản ảnh hiệu năng
kinh tế vì những xí nghiệp đút lót, dù kém hiệu năng, cũng sẽ được ưu
đãi hơn những xí nghiệp khác. Tham nhũng sẽ làm cho điều kiện lao động
thiếu vệ sinh, an toàn, gây ô nhiễm môi trường (chủ xí nghiệp đút lót
cho các viên chức thanh tra). Cơ chế đấu thầu tham nhũng sẽ đưa đến
các công trình xây cất thiếu tiêu chuẩn chất lượng, chóng hư, dễ đổ.
2. Ảnh hưởng đến chính sách kinh tế và cải cách thể chế
(a) Tham nhũng sẽ ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước. Một mặt, ngân sách sẽ bị khiếm thu nếu có bộ phận trốn thuế hoặc được giảm thuế nhờ đút lót. Mặt khác, tham nhũng sẽ gây lạm chi cho nhiều chính sách xã hội và công nghiệp.[3]
Nhưng ảnh hưởng của tham nhũng trên ngân sách sẽ không dừng lại ở đó:
khi ngân sách bị thiếu hụt thì nhà nước hoặc là phải cắt giảm các
chương trình phúc lợi xã hội (gây thiệt thòi cho những đối tượng xứng
đáng hưởng thụ các chương trình ấy) hoặc là tăng thuế. Thuế càng cao
thì càng làm trì trệ các hoạt động kinh tế và, trong một xã hội tham
nhũng, càng làm thiệt thòi cho các doanh nhân lương thiện, không đút
lót.
Bởi
lẽ thu chi cũng là một công cụ nòng cốt trong chính sách điều tiết, ổn
định, và phát triển kinh tế của nhà nước, tham nhũng trong có cấu thuế
má, chi tiêu, sẽ làm giảm hiệu lực các chính sách đó.
(b) Tham nhũng có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ qua ba kênh. Một là,
các viên chức có trách nhiệm cho vay, nếu tham nhũng, sẽ cho những
người đi vay có đút lót một lãi suất ưu đãi, làm tăng khối lượng tiền
lưu hành, tạo sức ép lạm phát. Hai là,
nếu khu vực doanh nghiệp nhà nước là lớn thì chính sách tiền tệ (qua
các quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng) sẽ có ảnh hưởng
qua lại đến tham nhũng trong các doanh nghiệp đó. Ý kiến về chính sách
tiền tệ do quản lý các doanh nghiệp này đưa ra có thể chỉ là nhằm che
đậy tham nhũng đang có trong doanh nghiệp của họ, hoặc để tạo thêm cơ
hội tham nhũng. Ba là,
những kẻ làm giàu bất chính thường lén lút chuồn tiền ra nước ngoài,
tăng mức cầu ngoại tệ, làm yếu nội tệ, ảnh hưởng đến cán cân thương mại
quốc gia.[4]
(c) Bất cứ lúc nào (nhưng đặc biệt là trong thời kỳ chuyển đổi có cấu kinh tế) thì sự cải cách định chế quản
lý nhà nước cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, một phần do những cản ngại
khách quan, một phần vì những ỳ tính trong phong thái con người. Những
khó khăn đó càng nhân lên nhiều lần khi quá trình cải cách bị các phần
tử tham nhũng cố tình kềm hãm (hầu duy trì những định chế tham nhũng
đang có) hoặc làm chệch hướng (lập ra những định chế mới với nhiều cơ
hội tham nhũng hơn).
Điều
đáng lo ngại là rất khó phát hiện ảnh hưởng của tham nhũng vào quá
trình biến đổi thể chế, nhất là khi nó được che đậy dưới những chỉ tiêu
nghe rất hợp lý. Chẳng hạn như theo nhận xét của nhiều học giả thì
chính quá trình phân tán quyền hành (decentralization) đã làm tham
nhũng bành trướng khủng khiếp ở Nga sau khi Liên Xô tan ra. Gần đây, ở
Trung quốc cũng đã có nhiều cảnh báo về tham nhũng liên hệ đến thị
trường chứng khoán của họ. Tương tự, có ngưòi lo ngại rằng quyết định
gần đây của Việt Nam nhằm tập trung nhiều doanh nghiệp nhà nước thành
một số tổng công ty, tuy có vài hiệu quả kinh tế tích cực đáng kể, có
thể sẽ làm tăng thêm cơ hội tham nhũng.
3. Ảnh hưởng đến phân hoá thu nhập và công bằng xã hội
Tham
nhũng sẽ làm trầm trọng hơn mức độ chênh lệch thu nhập trong xã hội.
Các viên chức nhận hối lộ, cũng như những người đút lót để có đặc quyền
kinh doanh, chiếm hữu ruộng đất, sẽ mau chóng làm giàu, trong lúc đại
đa số dân chúng phải tiếp tục sống trong cảnh nghèo nàn, thậm chí có
khi càng bần cùng thêm.
Phải
nhìn nhận rằng, đến một chừng mực nào đó, thu nhập không đồng đều là
một hậu quả khó tránh của kinh tế thị trường, thậm chí có thể là cần
thiết cho sự vận hành năng động của cơ chế đó nếu nó phản ảnh trung
thực tài năng và sự cần mẫn làm ăn. Nhưng sự chênh lệch thu nhập do
tham nhũng lại là một điều hoàn toàn khác. Ảnh hưởng của nó đến nhiều
nhân tố cần thiết cho tăng trưởng kinh tế sẽ rất lớn và tiêu cực. Một là, sự phân hoá này sẽ làm yếu đi động lực hy sinh vì lợi ích chung, hai là, nó xói mòn lòng trọng nể uy quyền nhà nuớc và do đó làm cùn lụt các biện pháp điều tiết và chấn hưng kinh tế. Ba là,
như đã nói, khi ngân sách bị khiếm hụt vì tham nhũng, nhà nước sẽ phải
cắt giảm các hoạt động công ích và phúc lợi (giáo dục, xã hội, y tế) là
các hoạt động mà đại bộ phận đối tượng là thành phần có thu nhập thấp.
Như vậy, tham nhũng sẽ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, khắc sâu hơn
những ấn tượng bất công, mạnh mẽ khích động sự phẫn nộ đối với chế độ.
Nhìn
một cách khác, liên hệ giữa tham nhũng và phân hoá thu nhập là hai
chiều. Tham nhũng gây chênh lệch thu nhập, nhưng chính chênh lệch thu
nhập cũng sẽ làm nhiều người mất niềm tin vào sự công bình của xã hội,
đẩy họ vào con đuờng tham nhũng.
4. Ảnh hưởng của tham nhũng trên tham nhũng
Tham
nhũng, nếu không bị chận đứng, sẽ gây thêm tham nhũng. Một khi đã tham
nhũng, người tham nhũng sẽ tham nhũng thường hơn và với những số tiền
lớn hơn. Các viên chức tham nhũng sẽ có xu hướng bổ nhiệm người kế vị
hoặc thừa hành giống họ (để tiếp tục giữ bí mật tham nhũng), bất kể
năng lực. Tham nhũng càng nhiều thì "giá trị" của các chức vụ có cơ hội
tham nhũng càng cao và sẽ sinh ra những mua bán những chức vụ đó.
Những người mua chức vụ đuơng nhiên sẽ tham nhũng thêm để lấy lại “vốn
đầu tư" của mình và sẽ chống đối các cải cách có cơ làm giảm quyền lực
những chức vụ đó.[5] Các
viên chức tham nhũng sẽ thích nhận đút lót của những người có tiếng
tham nhũng hơn là những người thanh liêm bởi lẽ những người có tiếng
ham đút lót sẽ ít khi "trở cờ" truy tố kẻ nhận tham nhũng. Hậu quả là
mạng lưới tham nhũng ngày càng bành trướng thêm.
Những người thanh liêm thì một là sẽ bị tham nhũng loại trừ, hoặc là cũng sẽ bị tham nhũng cám dỗ.[6] Tham nhũng càng nhiều thì càng khó trừ diệt.[7]
Nếu tham nhũng là ít thì ta có thể ngăn ngừa bằng cách luân chuyển công
chức cán bộ, nhưng nếu tham nhũng là rộng khắp thì chính việc thuyên
chuyển cũng là một cơ hội tham nhũng thêm.
5. Tham nhũng có chăng những hậu quả kinh tế tích cực?
Mặc dù có nhiều ảnh hưởng kinh tế tiêu cực như vừa lược duyệt, một số tác giả[8] cho
rằng tham nhũng cũng có vài hậu quả tích cực. Theo họ, tham nhũng, nếu
ta không nhìn đến sự xúc phạm giá trị đạo đức của nó, cơ bản chỉ là một
hoạt động mua bán chẳng khác gì những mua bán khác trong thị trường.
Nói cách khác, đút lót hối lộ là đối sách tự nhiên của một “con người
kinh tế” nhằm vượt qua các cản ngại trong kinh doanh (hành chính quan
liêu, thủ tục rườm rà). Nó cũng có thể được coi như là một thứ “bảo
hiểm” do doanh nhân “mua” nhằm phòng chống những thay đổi bất ngờ về
luật lệ, chính sách, gây xáo trộn cho kế hoạch làm ăn của họ. Một số
nhà kinh tế còn cho rằng, trong nhiều trường hợp, các quan chức cấp đặc
quyền kinh tế cho bạn bè thân quyến chẳng phải vì tham nhũng nhưng vì
họ biết rõ hạnh kiểm và năng lực của những người này hơn là của những
người mà họ không quen.[9]
Cũng có người nghĩ rằng, các viên chức tham nhũng sẽ làm việc năng nổ
hơn, dù chỉ là để phục vụ các doanh nghiệp mà họ đã nhận đút lót.
Thoạt
nhìn thì các biện giải trên không phải là hoàn toàn phi lý, nhưng xem
kỹ lại thì chúng căn cứ vào nhiều giả định huyền hoặc, thậm chí ngây
thơ. Thứ nhất,
lý luận cho rằng tham nhũng là có hậu quả tốt cho kinh tế chỉ có thể là
đúng (nếu là đúng) phần nào đối với loại tham nhũng liên hệ đến mua bán
những quyết định mà bản chất là hợp pháp (ví dụ như để làm nhanh thủ
tục hành chánh); lý luận đó không áp dụng được đối với loại tham nhũng
dính líu đến chia chác lợi lộc các hoạt động phi pháp (như buôn lậu,
biển thủ). Nói cách khác, sự năng nổ “phục vụ” của quan chức có thể
đem lại nhiều hậu quả tai hại hơn nếu chính những hoạt động mà họ nâng
đỡ phục vụ là phi pháp. Thứ hai,
chưa chắc là các viên chức nhận đút lót sẽ làm việc năng nổ hơn. Có
thể chính họ sẽ bày đặt thêm thủ tục hành chánh để tăng cơ hội tham
nhũng. Thứ ba,
dù cho rằng hoạt động tham nhũng có là gián tiếp “đóng góp” phần nào
vào tiến trình tự do hoá thị trường (bằng cách giảm đi hiệu năng can
thiệp của nhà nước) thì điều đó chỉ đáng cổ vũ nếu sự can thiệp của nhà
nước hoàn toàn là nên tránh. Nói khác đi, lập luận đó sẽ mất ý nghĩa
nếu sự điều tiết của nhà nước là cần thiết cho phát triển kinh tế hoặc
những lợi ích công cộng khác.
Có
người lý luận rằng, vì vốn là cần thiết để phát triển kinh tế, tham
nhũng có thể có hậu quả "tốt" vì nó là một cách (dù là phi pháp) cho
một số người tích tụ vốn để đầu tư sản xuất. Tuy nhiên, theo kinh
nghiệm ở nhiều nước, tài sản do tham nhũng đem lại ít khi được kinh
doanh chân chính hoặc vào những hoạt động có nhiều lợi ích cho quốc
gia. Người tham nhũng hoặc là sẽ tiêu xài hoang phí (nhất là vào các
hàng xa xỉ ngoại nhập), hoặc là giấu giếm tài sản của mình, thường bằng
cách chuồn tiền ra nước ngoài, làm trầm trọng thêm sự đào tẩu vốn. Hơn
nữa, các kinh doanh hợp pháp khó có lợi nhuận hậu hĩ như trong "dịch
vụ" tham nhũng, do đó tài sản do tham nhũng đem lại thường được đưa vào
nhũng kinh doanh phi pháp khác.
Cũng
có người cho rằng tính phi pháp của tham nhũng phải được thẩm định
trong bối cảnh văn hoá và phong tục của xã hội liên hệ. Theo họ, tham
nhũng ở các nước phương Đông thực sự là không nhiều như các người quan
sát phương Tây nhận xét. Có nhiều phong tục tập quán trong một xã hội
có thể bị người ngoài xã hội ấy cho là tham nhũng. Biện luận loại này
về tính “tưong đối” của văn hoá vừa là sai lầm, vừa là có ý khinh rẽ
văn hoá phương Đông. Tham nhũng không bao giờ được chấp nhận như một
phong tục tập quán tốt trong bất cứ xã hội nào.
II. THAM NHŨNG: THÀNH TỐ VÀ ĐỐI SÁCH
Trước
những hậu quả tệ hại của tham nhũng như đã trình bày ở Đoạn I, hai câu
hỏi cần được đặt ra: (1) mức độ tham nhũng tùy vào những thành tố nào?
Và (2) làm thế nào để giảm bớt tham nhũng?