Kinh tế Việt Nam đang đối diện với
nhiều thách thức chưa từng có tiền lệ, khiến những đồn đoán về một hội
nghị giữa nhiệm kỳ của đảng cầm quyền để giải quyết mâu thuẫn nội bộ có
thể trở thành sự thật trong ít ngày tới. Nếu điều đó xảy ra, đảng cộng
sản Việt Nam, lực lượng luôn khẳng định vai trò Cầm quyền ở Việt Nam sẽ
phải đương đầu với phán xét của Nhân dân. Quyền lực nhân dân không chỉ
quyết định giải pháp đảng cầm quyền lựa chọn để vượt qua khủng hoảng
kinh tế hiện nay, quyền lực đó sẽ còn lựa chọn tương lai phát triển của
Việt Nam.
Tiếng vọng của lịch sử
Theo thông lệ, đảng cầm quyền sẽ tiến hành họp hội nghị trung ương 7,
nhưng nền kinh tế Việt Nam từ vị thế ngôi sao đang lên đã tụt dốc
nghiêm trọng mà nguyên nhân sâu xa không ngoài yếu tố phân chia quyền
lực trong nội bộ đảng cầm quyền. Hình ảnh ngôi sao đang lên của Việt
Nam có gì đó khiến người ta liên tưởng đến sự thăng tiến của ông Nguyễn
Tấn Dũng. Từ một viên chức địa phương ở Miền Nam, ông Dũng gia nhập
hàng ngũ cao cấp của đảng cầm quyền giữa thập kỷ 90 thế kỷ 20, với vị
trí thứ trưởng Bộ Nội Vụ nay là Bộ Công An. Nếu theo cơ cấu, ông Dũng
sẽ trúng ủy viên bộ chính trị và trở thành Bộ trưởng Bộ Nội Vụ sau Đại
hội đảng lần thứ VIII, nhưng ông Dũng bất ngờ trúng ủy viên thường trực
bộ chính trị, gia nhập vào đội ngũ năm nhân vật cao cấp nhất của chế
độ.
Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 diễn ra, trên bề nổi Việt Nam gần
như không hề hấn gì. Thực tế, hoàn toàn khác xa, nền kinh tế Việt Nam
trước đó đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ, với động lực số một là luồng
vốn đầu tư nước ngoài "đổ vào" nhiều nhất trong lịch sử, với gần 8 tỷ
đô la Mỹ đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 1996. Khủng hoảng đến,
đa số những cam kết đầu tư hoặc dự án đang triển khai bị dừng lại vô
thời hạn, nền kinh tế Việt Nam tụt dốc thảm hại, đẩy thế hệ 7X đối diện
với thách thức Thất nghiệt hàng loạt, điều chưa bao giờ xảy ra kể từ
đầu những năm 90.
Trước những khó khăn chồng chất như
vậy, đại hội giữa nhiệm kỳ của đảng cầm quyền vào năm 1997, bộ ba Mười
- Anh - Kiệt đã thống nhất cùng lùi lại phía sau cho thế hệ "trẻ hơn"
lên đứng mũi chịu sào. Đó cũng là thời điểm ông Dũng "ngồi" vào ghế
thống đốc ngân hàng nhà nước dù thực tế điều hành ngân hàng là Phó
thống đốc Lê Đức Thúy. Rồi ông Dũng được bổ nhiệm vào vị trí phó thủ
tướng thường trực, bắt đầu lộ trình học việc gần một thập kỷ, để sau
này trở thành người được lựa chọn đứng đầu một thế hệ lãnh đạo mới của
đảng cầm quyền. Mặc dù, trên danh nghĩa bộ ba Mười - Anh - Kiệt đã lùi
vào hậu trường, những dấu ấn của bộ ba vẫn bao trùm đảng cầm quyền, đặc
biệt là cặp bài trùng Mười - Anh.
Nếu không có khủng hoảng tài chính
1997, rất khó để khẳng định phe tư tưởng - sức mạnh sẽ lên ngôi. Đáng
tiếc là khủng hoảng đến, làm ký ức thời chiến lại hiện về giúp cặp bài
trùng Mười - Anh khẳng định ảnh hưởng, quyết định con đường phát triển
của đất nước. Dấu ấn lớn nhất về đối ngoại mà bộ đôi này để lại không
ngoài việc làm chậm quá trình bang giao Việt - Mỹ, khi quyết định "chưa
ký" Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ở thời điểm năm 1999. Đồng nghĩa với
việc bỏ lỡ cơ hội bằng vàng để Việt Nam nhanh chóng hòa nhập với nền
kinh tế toàn cầu. Điều mà sau đó, Việt Nam phải trả giá đắt bằng những
lợi thế mà người "anh em" Trung Quốc có được khi gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới ( WTO), bằng những nỗ lực đến cùng cực để vào WTO
cùng các điều kiện mở cửa thị trường có phần quá sức chịu đựng của nền
kinh tế và hệ thống chính trị Việt Nam.
Đại hội X của đảng cầm quyền là sự
thắng thế phần nào của lực lượng cấp tiến, mở đường để ông Dũng ngồi
vào ghế thủ tướng và thực hiện khát vọng vươn lên của cả dân tộc. Đáng
tiếc, một lần nữa, ông Dũng và lực lượng cấp tiến không thống nhất được
quyền lực trong đảng cầm quyền, thể hiện rõ nhất tại Hội nghị trung
ương 5, ông Dũng lobby để mình được chọn ê kíp song các thế lực ở hậu
trường vẫn giữ được vài quân bài trọng yếu, mặt khác, họ còn thành công
khi kéo nhân vật trung dung về phe mình. Kết quả là, ông Dũng không nắm
được lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế là khu vực tài chính - ngân
hàng, dù thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Giàu là đệ tử ruột của
ông, ông lại nóng vội "khai sinh" cho các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Đây cũng chính là nguyên nhân đẩy nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng
hoảng, đồng thời đe dọa tương lai chính trị của ông Dũng trong những
ngày tới.
Thời bình hay thời chiến?
Càng gần đến ngày đảng cầm quyền họp, tình hình kinh tế càng xấu thì
biến cố đột ngột xuất hiện, ông Kiệt, một nhân vật trong bộ ba quyền
lực ngày nào, ra đi. Từ khi lùi vào hậu trường ông Kiệt trở thành thủ
lĩnh của phe cấp tiến trong đảng với chủ trương dân chủ hóa đất nước
trong yên bình, ông Kiệt nhanh chóng tạo được ảnh hưởng với thế hệ kế
tục trong đảng cũng như nhiều tầng lớp ngoài xã hội.
Sự ra đi của ông Kiệt ban đầu khiến
dư luận e ngại phe bảo thủ hơn vì với "vũ khí" chính là tư tưởng - sức
mạnh phe bảo thủ sẽ nhân cơ hội lật ngược thế cờ, thống nhất quyền lực
trong đảng cầm quyền về một mối. May thay, sự ra đi của ông lại trở
thành "tang lễ chính trị" ghi nhận thành quả của đường lối đổi mới về
kinh tế đã cứu thoát một dân tộc trước hiểm họa đói nghèo và loạn lạc,
về xã hội, tiếng nói của giới tri thức đã được thừa nhận nhiều hơn.
Điều này lý giải, tại sao giới báo chí thông tin dày đặc về ông, người
dân bất kể thành phần tiếc thương ông?
Thử hỏi, Việt Nam đang ở thời bình hay ở thời chiến? Mà một bộ phận
trong đảng cầm quyền vẫn muốn mượn bàn tay của lực lượng sức mạnh phục
vụ cho những toan tính quyền lực của mình.
Lực lượng được coi là thành trì của chế độ, bao gồm tư tưởng, công an
và quân đội thực ra không "mạnh" như chế độ ra sức tuyên truyền, nếu
không muốn nói, đó là những thùng thuốc súng có thể "nổ" bất kỳ thời
điểm nào.
Đất nước đã bước vào thời bình mấy chục năm rồi, tại sao cứ phải "áp
đặt" một hệ tư tưởng cho toàn xã hội? Vì nền tảng để một quốc gia giàu
- mạnh chính là phát huy cao độ các nguồn lực, trong khi đó nguồn lực
lớn nhất của Việt Nam bây giờ không phải là tài nguyên thiên nhiên,
không phải là rừng vàng biển bạc, nguồn lực lớn nhất của Việt Nam chính
là khả năng sáng tạo của 85 triệu dân. Đặc biệt là 70% trong số đó, thế
hệ thanh niên, những người may mắn được tiếp cận nền kinh tế tri thức.
Không chỉ sáng tạo để phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, người Việt
Nam hoàn toàn có khả năng tạo dựng những tư tưởng được thời đại chấp
nhận, thì không lẽ gì cứ phải "chung thân" theo kiểu đối phó với tư
tưởng của một ai đó. Cho dù, tư tưởng đó, được thừa nhận hay áp đặt là
nền tảng cho những thành công trong quá khứ của dân tộc, thì nó không
bảo đảm sẽ thành công mãi mãi.
Thật khó chấp nhận, khi đất nước khó khăn như hiện nay, đảng cầm quyền
kêu gọi nhân dân tiết kiệm, thì một phần tài sản quốc gia lại đương
nhiên bị sử dụng lãng phí trong việc tuyên truyền về một hình tượng
thánh nhân. Nếu đã là thánh nhân, đã đi vào dân gian, liệu có cần tuyên
truyền, tô son trát phấn? Chẳng nhẽ không tô son trát phấn thì các
thánh nhân trong lịch sử bị nhân dân quên lãng sao?
Đất nước đã bước vào thời bình mấy chục năm, nhẽ ra phải có những chính
sách thu hút chất xám phát triển kinh tế dân sinh, qua đó, tạo nguồn
lực lâu dài duy trì tiềm lực quân sự quốc gia, nhằm đập tan mọi âm mưu
bá quyền. Thì đảng cầm quyền lại "ưu ái" thu hút nhân lực cho các lực
lượng công an, quân đội, cùng với đó là nhiều đặc quyền đặc lợi, khiến
ngân sách quốc gia luôn phải gánh quá sức các chi phí an ninh - quốc
phòng. Một quốc gia nhỏ bé, người dân hiền hòa, vậy mà lực lượng công
an có quân số khoảng 100.000 người, còn các lực lượng vũ trang thì gấp
khoảng 10 lần con số trên.
Đáng buồn thay, tư duy thế tục của thời chiến vẫn được duy trì trong 2
lực lượng này cũng như hệ thống công quyền. Tức là, đương nhiên sẽ có
một tỷ lệ vài chục phần trăm cho con em trong ngành khi tuyển dụng đầu
vào. Thử hỏi, với Quota như vậy, tiêu cực - tham nhũng không hoành
hoành mới lạ, điều đương nhiên tiếp theo là cơ hội thăng tiến với những
người "thân cô thế cô" trong hệ thống chẳng khác nào trúng số độc đắc,
bộ máy cứ thế phình lên, to ra, dù nhiệm kỳ nào, đại hội nào cũng ngùn
ngụt khí thế quyết tâm Cải cách hành chính.
Số anh em không trong diện quota, dù giỏi giang đến mấy, nhiệt huyết
đến mấy, trong sáng đến mấy, thì "ở trong chăn mới biết chăn nó dận" số
ít có cá tính thì quyết định làm lại thì cũng bỏ lỡ một phần tuổi trẻ,
còn đa phần để môi trường đồng hóa, trở thành những công chức điển hình
của chế độ. Thật đau lòng và đáng tiếc khi một nguồn lực chất xám của
đất nước cứ "le lói" và "tắt dần" như thế.
Những "mảng tối" như vậy, sẽ không
bao giờ được thừa nhận trước dư luận chính là hiểm họa với đất nước.
Bởi như một qui luật bất thành văn đến man rợ: trước nhân dân chỉ có
một hình ảnh duy nhất về lực lượng an ninh - quốc phòng, đó là lực
lượng tinh nhuệ, sẵn sàng bảo vệ đảng và chế độ. Là lực lượng luôn
chiến thắng trong mọi hoàn cảnh, mọi kẻ thù.
Sẽ ra sao, khi những tư tưởng như thế này "quên" nhiệm vụ bảo vệ bình
yên cuộc sống cho nhân dân và bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ, để tính
cao thấp cùng những danh lợi tối thượng của quyền lực?
Đó là khi nhân dân, những "ông chủ" nuôi sống hệ thống "không được
quyền biết" nhiều tỷ đô la mỹ ngân sách dùng cho an ninh - quốc phòng
những năm qua được chi như thế nào? Giúp hiện đại hóa lực lượng an ninh
- quốc phòng đến đâu? Đã qua rồi cái thời "đóng cửa bảo nhau" để "dọa"
dân đó là Bí mật quốc gia, công bố không có lợi, nhất là khi tình trạng
tham nhũng lan tràn như hiện nay thì đòi hỏi Minh bạch là không thể
chối cãi.
Đất nước đã thời bình mấy chục năm, lòng người đã khác. Vì vậy, những
toan tính dùng tư tưởng và sức mạnh để quản trị đất nước đã lỗi thời,
hãy tỉnh táo trước khi quá muộn.
Không có "Ngụy" chỉ có "đồng bào"
Trong nỗ lực "giải độc" cho chế độ, trước niềm tin bị lung lay dữ dội
của giới đầu tư quốc tế, tất cả các nhân vật chóp bu của chế độ đã phải
"ra trận", dù là tổng bí thư Nông Đức Mạnh, thường trực Ban bí thư
Trương Tấn Sang, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng, hay chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng. Đến thời điểm này, chưa
thể đánh giá nỗ lực "giải độc" thành công đến đâu, ngoài những cái bắt
tay, những lời động viên - khích lệ, mang nặng phong cách ngoại giao.
Vì các "đối tác" cũng đang thập diện mai phục, chờ xem đảng cầm quyền
"nói chuyện" nội bộ thế nào?
Từ khi thực hiện đường lối kinh tế "mở", đảng cầm quyền đã nỗ lực rất
nhiều trong việc đáp ứng các yêu cầu của giới đầu tư quốc tế, giúp Việt
Nam thu được những thành quả đáng khích lệ về kinh tế - chính trị - văn
hóa - xã hội. Nhưng để qua đó kết luận rằng Việt Nam đã bình đẳng trong
hợp tác với bạn bè năm châu, thì chỉ là tự ru ngủ mình. Bằng chứng là,
khi vừa "hớn hở" vươn ra biển lớn, Việt Nam đã lâm nạn, đảng cầm quyền
theo thông lệ cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ - giúp đỡ của "đối tác" song
đáp lại chỉ là "hứa".
Thực tế đó khẳng định luận điểm không chế chối cãi : Trước khi hy vọng được người ngoài cứu, hãy tự cứu lấy mình.
Mà giải pháp cứu mình tốt nhất không ngoài huy động tối cao các nguồn
lực dân tộc. Là thực hiện triệt để Cải cách về Kinh tế - chính trị -
văn hóa - xã hội. Cải cách bây giờ là Mệnh lệnh, là không phải bàn cãi.
Bất kỳ thế lực nào cản trở tiến trình cải cách chính là phản bội lợi
ích dân tộc.
Điều này lý giải vì sao, cộng đồng quốc tế và đa phần nhân dân Việt Nam
mong muốn ông Dũng tiếp tục tồn tại để đi tiếp con đường dở dang. Và
chí ít ông Dũng cũng khát khao hoàn thiện trách nhiệm, ông đã đúng, khi
bằng mọi thu xếp chuyến thăm Hòa Kỳ, đối tác thương mại quan trọng nhất
của Việt Nam, như một nỗ lực "ghi điểm" với giới đầu tư quốc tế cũng
như số đông đảng viên trẻ, trước khi đối diện với thách thức lớn nhất
trong sự nghiệp.
Trong thời gian ở Hoa Kỳ, ông Dũng
đã biết mình, biết người khi vô cùng cầu thị trong cuộc tiếp kiến với
"thầy phù thủy" Alan Greenspan. Chứng tỏ, nếu ông tiếp tục được tạo cơ
hội, đứng đầu chính phủ Việt Nam, ông biết mình phải làm gì? Một động
thái khác, cũng chứng tỏ ông Dũng xứng đáng được trao cơ hội, là hoạt
động gặp gỡ bà con kiều bào, với trách nhiệm hòa giải - hòa hợp dân
tộc, đang chờ đợi ông, sau khi ông kêu gọi "Bà con hãy hướng về quê
hương, bằng mọi đường, mọi nẻo. Quê hương là vĩnh hằng, trong khi quá
khứ đã là lịch sử, cần gác lại".
Đúng! Dù nỗi đau trong lòng dân tộc còn rất lớn thì người Việt Nam dù ở
đâu, chính kiến nào, cũng chỉ có một mong mỏi: Sớm thống nhất lòng
người sau khi đã thống nhất về địa lý.
Chỉ khi đó, sức mạnh Đại Việt mới trở thành hiện thực, mới sánh ngang các cường quốc năm châu.
Nhưng chiến tranh đã qua đi mấy chục năm, trong khi kiều bào vẫn nặng
lòng với đất mẹ, đóng góp sức mình cho sự thay da đổi thịt của Việt Nam
thì đảng cầm quyền vẫn công khai chia cắt lòng người. Chỉ với từ "Ngụy"
trong lịch sử, trong sách giáo khoa dạy cho các thế hệ mai sau, trong
nhiều văn bản chính thức và các hoạt động "kỉ niệm" hoành tráng đã gợi
lại tất cả những gì đau thương nhất của dân tộc. Đã đến lúc xóa bỏ
"Ngụy", trên toàn cõi này, giữa người Việt với người Việt chỉ có hai từ
thân thương, là "đồng bào".
Đó là trách nhiệm với vận mệnh dân tộc, yêu cầu đảng cầm quyền phải thực hiện ngay.
Nhiều người sẽ cho rằng, hội nghị giữa nhiệm kỳ hay hội nghị trung
ương, ai đi ai ở, là chuyện nội bộ của đảng cầm quyền. Điều này không
hề sai. Nhưng một đảng để dũng cảm nhận vai trò cầm quyền thì đảng đó
phải có trách nhiệm lèo lái đất nước đến phồn vinh - giàu mạnh. Trái
lại, sẽ không phải làn sóng bỏ nước ra đi của người dân những năm 80
thế kỷ 20 đầy tăm tối, mà chính đảng phải lùi bước để nhân dân thực hiện sứ mệnh của mình.
Phạm Hùng Vỹ
|