Phải
đến lúc Tokyo tuyên bố đình chỉ toàn diện viện trợ phát triển (ODA) cho
Hà Nội thì đảng và nhà nước CSVN mới bắt đầu đưa ông Huỳnh Ngọc Sỹ,
người nhận hối lộ từ công ty PCI của Nhật, ra xử. Trước đó vài tuần, Hà
Nội chỉ cho điều tra qua loa rồi loan báo đã tạm ngưng chức vụ Phó Giám
đốc sở Giao thông Công chánh thành phố Sài Gòn, kiêm Giám đốc Ban Quản
lý PMU Đông Tây của ông Sỹ.
Có
lẽ Hà Nội tưởng rằng làm qua quýt như vậy là vụ hối lộ PCI cũng sẽ chìm
xuồng như bao nhiêu vụ tham nhũng hối lộ khác có liên quan đến những
quan chức cao cấp trong đảng Cộng Sản Việt Nam. Với thói quen bịt miệng
truyền thông báo chí, đàn áp những tiếng nói của nhân dân, Hà Nội không
ngờ rằng, ở một nước tự do dân chủ như Nhật, nhà nước không những không
thể coi thường, mà còn phải tôn trọng dư luận quần chúng, nhất là lại
kèm theo áp lực của các định chế quốc tế. Thực ra trong một xã hội tư
do dân chủ như ở Nhật, thì số phận của nhà nước nằm trong tay nhân dân,
thông qua lá phiếu của người dân trong các cuộc bầu cử tự do và công
bằng, chứ không dựa trên sức mạnh của bạo lực đàn áp từ phía nhà nước
để duy trì quyền lực như ở Việt Nam.... Bởi vậy, khi nghe chính đại sứ
Nhật ở Hà Nội là ông Sakaba loan báo Tokyo quyết định đình chỉ toàn
diện viện trợ ODA cho Việt Nam, có lẽ các quan chức lãnh đạo đảng và
nhà nước cộng sản Việt Nam thoạt tiên có thể không tin và không hiểu
nổi quyết định vừa kể của Nhật. Nhất là việc hai cựu thủ tướng Nhật lại
áp lực Cộng Sản Việt Nam phải cách chức toàn bộ thành uỷ Sài Gòn có
liên quan đến vụ tham nhũng này... Nhưng nếu ở Nhật, được thông tin
nhiều chiều để biết tường tận vấn đề, thì điều làm người ta không hiểu
nổi là tại sao một nhà nước thối nát, tham nhũng tột cùng như nhà nước
Cộng Sản Việt Nam lại tồn tại được; và tại sao cho đến bây giờ Nhật mới
có biện pháp mạnh để hy vọng chấm dứt được việc các quan chức Cộng Sản
Việt Nam bòn rút tiền đóng thuế của người dân Nhật trong viện trợ ODA.
Giới
lãnh đạo đảng CSVN rất cần tiền viện trợ của Nhật, nên phải đem ông Sỹ
ra xử. Mà xử như thế nào đây, để có lại tiền viện trợ đó? Xử qua loa
cho có lệ như mọi khi thì khó qua mặt được Nhật; mà xử theo đúng trình
tự tố tụng, và làm minh bạch mọi chuyện liên quan, thì sẽ khó giấu diếm
được những đường dây tham nhũng liên hệ trong nội vụ của lãnh đạo đảng.
Trước tình trạng này, điều tốt nhất cho Hà Nội là ông Sỹ đột tử hay đột
nhiên vô cớ.... bị bệnh tâm thần. Những kẻ ăn chặn tiền viện trợ, hay
những đồng tiền cứu trợ khác, như ông Sỹ và những người lãnh đạo Hà Nội
hiện nay, thì khó mà có được sự liêm sỉ để tự xử, hầu bảo vệ "danh dự",
cái mà chính họ cũng không có. Bởi vậy, khi có những tin tức từ người
thân ông Sỹ tiết lộ về việc đương sự đã bị đưa vào bệnh viện và bị
chích thuốc mất trí nhớ, thì dư luận coi đây như một hình thức báo động
về những xảo thuật của Hà Nội có thể thi hành trong vụ án PCI.
Từ
năm 1995, viện trợ ODA của các nước bắt đầu đổ nhiều vào Việt Nam. Hơn
10 năm sau, đời sống của đại đa số người dân vẫn nghèo đói, khốn khổ
như xưa. Trong khi đó, tất cả những người lãnh đạo đảng CSVN đã trở
thành triệu phú, tỷ phú đô la, qua việc bán tài nguyên quốc gia cho tư
bản nước ngoài, bóc lột cướp đoạt đất đai tài sản của nhân dân, và rút
ruột hầu hết những dự án từ tiền viện trợ ODA. Bởi vậy, vào cuối năm
2005 người ta không ngạc nhiên khi một thành viên cao cấp của Hội đồng
Mậu dịch Việt-Mỹ tiết lộ rằng, đảng CSVN được xem là một đảng tỷ phú
hàng đầu của thế giới, với tài sản trên 20 tỷ mỹ kim. Kèm theo lời tiết
lộ này là một danh sách liệt kê tài sản khoảng 300 người giàu nhất Việt
Nam, mà đứng đầu là ông Lê Đức Anh với tài sản trên 2 tỷ 215 triệu mỹ
kim; kế tiếp là là ông Trần Đức Lương với 2 tỷ 100 triệu đô la; ông
Phan Khải đứng hạng ba, với tài sản trên 2 tỷ mỹ kim một chút. Thứ tự
sau đó là các ông Đỗ Mười, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Khả Phiêu, với tài sản
mỗi ông xấp xỉ 2 tỷ đô la. Người đứng gần hạng chót trong danh sách là
ông Cù Huy Cận cũng có tài sản trên 350 triệu đô la. Thực ra thì thứ tự
10 người đứng đầu danh sách vừa kể có thể thay đổi nhanh chóng, khi mà
họ có thể tranh dành được những cuộc bán buôn tài nguyên quốc gia, hay
vớ được một hai dự án đầu tư nước ngoài. Khi được biết tiết lộ này của
hội đồng Mậu Dịch Việt Mỹ, câu hỏi ai cũng đặt ra ngay là, với mức
lương tháng trên dưới 300 mỹ kim, những người lãnh đạo đảng Cộng sản
Việt Nam đào đâu ra nhiều tiền đến thế? Và với thực tế hiển nhiên qua
những chiến dịch chống tham nhũng ồn ào bằng mồm của giới lãnh đạo Cộng
Sản Việt Nam, người ta có ngay câu trả lời mà không sợ sai lầm.
Từ
người đứng đầu danh sách là ông Lê Đức Anh cho đến người đứng gần cuối
sổ là ông Cận, đều khai trong lý lịch họ là người vô sản. Nhưng với
những tài sản khổng lồ họ đang gửi ở các ngân hàng nước ngoài hiện nay
thì chuyện họ khai man lý lịch không phải là chuyện quan trọng nữa, vì
với một đảng và nhà nước mà cách đây gần 20 năm tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh đã phải than thở là "nhà dột từ nóc giột xuống", bây giờ càng giột
nặng hơn, thì người ta đều biết những tuyên bố của giới lãnh đạo đảng
tự cho là họ trong sạch, hay "chỉ yêu sự thực, ghét nhất sự gian dối"
như ông Nguyễn tấn Dũng đã nói trên ti vi, chỉ là lời nói của những kẻ
không còn giây thần kinh xấu hổ. Vấn đề quan trọng còn lại là, liệu
nhân dân Việt Nam có đòi lại được hàng chục tỷ mỹ kim bất chính, mà
giới lãnh đạo Hà Nội đang gửi ở các ngân hàng nước ngoài, để trả bớt
các khoản nợ mà nước ngoài đã cho Việt Nam vay, hầu giảm bớt phần nào
gánh nặng cho người dân Việt Nam hay không? Câu trả lời sẽ là được, nếu
chế độ cộng sản độc tài không còn ngự trị trên đất nước Việt Nam nữa.
Người ta đã thấy những kinh nghiệm này qua việc chính phủ bà Akino của
Philippines tịch thu lại được nhiều tài sản của ông Marcos, một nhà độc
tài, tham nhũng khét tiếng của Philippines hồi trước thập niên 80. Hiện
nay người dân Thái Lan đang tìm cách lấy lại tài sản của cựu Thủ tướng
Thaksin, do ông này lạm quyền Thủ tướng của mình để tạo ra.
Một
điều khác quan trọng không kém là, nếu nhân dân Việt Nam không sớm lấy
lại những tài sản bất chính của giới lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay,
thì họ sẽ tìm cách tẩu tán bằng nhiều thủ đoạn. Đến khi lấy lại được
thì cũng chẳng còn bao nhiêu.
Ngô Văn