Báo chí vô sản định hình ở Liên Xô sau Cách mạng tháng Mười. Năm
1920, trong thư gửi Emma Goldman, nữ chính trị gia Hoa Kỳ, Lenin cho tự
do ngôn luận là một thiên kiến tư sản. Như vậy có thể hiểu báo chí vô
sản tách ra khỏi trào lưu giành quyền tự do ngôn luận mà nhân loại đã
đeo đuổi từ những năm 40 của thế kỷ 19.
Báo chí vô sản, theo Lenin, có chức năng tuyên truyền, giáo dục, cổ
động và tổ chức phong trào hành động cách mạng thực hiện thắng lợi các
nghị quyết của Đảng Cộng sản. Để làm tốt chức năng đó, báo chí vô sản
phải theo định hướng tuyên truyền trong từng thời kỳ, do Ban Tuyên huấn
Trung ương Đảng chỉ đạo. Theo định hướng, tức là phải chọn sự thật nào
có lợi và loại bỏ sự thật nào không có lợi cho mục đích tuyên truyền.
Để làm tốt việc tuyên truyền theo định hướng, báo chí cách mạng liên
tục đưa tin, bài về những điển hình người tốt việc tốt nảy sinh từ
phong trào thi đua trên các mặt trận chiến đấu, lao động sản xuất, học
tập rèn luyện để trở thành những con người mới vì lý tưởng xã hội chủ
nghĩa.
Nội dung nói trên cho thấy mấy điều:
- Đó là nền báo chí của một xã hội khép kín. Báo chí thực chất chỉ là
công cụ truyền đạt mệnh lệnh từ trên (Đảng, Chính phủ) dội xuống, không
có chức năng thông tin, không chấp nhận phản biện, không tự do ngôn
luận.
- Các bộ biên tập không xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, không nhằm
đáp ứng quyền được thông tin của bạn đọc để chuẩn bị nội dung tờ báo.
Họ căn cứ vào tiến độ tuyên truyền do cấp trên chỉ đạo để lập kế hoạch
minh họa bằng các bài báo. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan viết: “Họ chỉ chịu
trách nhiệm trước… Đảng chứ không phải trước độc giả. Và chỉ quan tâm
tới mục tiêu hơn là nội dung các bài báo.” (Nhật ký 1990, ngày 5- 11)
- “Không có tự do ngôn luận thì mọi truy tìm sự thật là bất khả”
(Charles Bradlaugh - nhà cải cách xã hội Anh). Báo chí vô sản tước bỏ,
bóp méo và bưng bít sự thật nhằm phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Do
đó, lẽ ra là “công cụ tốt nhất cho việc mở mang trí tuệ con người” thì
ngược lại nó là công cụ ngu dân!
Trong cuộc họp báo đầu tiên sau khi nhậm chức, Tổng thống Mỹ Obama nói:
“Một chính phủ lấn lướt báo chí, một chính quyền không phải đối mặt với
giới truyền thông cương trực và mạnh mẽ không phải là sự lựa chọn của
nước Mỹ”. Đối chiếu với câu nói đó, chúng ta thấy các nền báo chí vô
sản ngược hẳn lại.
Báo chí cách mạng Việt Nam theo hình mẫu báo chí vô sản của Lenin. Do
đó chúng ta cùng xét xem nó đã gây những hậu quả gì cho xã hội và người
đọc?
Cách mạng và sự thật
Trong các tập nhật ký, linh mục Nguyễn Ngọc Lan nhiều lần châm bíếm các
báo cách mạng cắt xén sự thật. Nhà xuất bản Tin (Paris) giới thiệu Nhật ký 1988
của ông đã đặt câu hỏi: “Cái gì làm cho chúng ta tuy cùng một tiếng mẹ
đẻ nhưng không cùng một ngôn ngữ? … Cái gì làm chúng ta sợ sự thật?”
Người viết bài này luôn dằn vặt bởi câu hỏi đó.
Ở Việt Nam, để buộc cỗ xe báo chí đi đúng định hướng, có đến bốn tay
lái: Lái chính là Ban Tuyên huấn Đảng, 3 lái phụ là Bộ Thông tin Truyền
thông, Cục An ninh Văn hoá Bộ Công an và cơ quan chủ quản tờ báo. Để
làm tốt việc tuyên truyền theo định hướng, báo chí cách mạng liên tục
đưa tin những người và việc điển hình xuất hiện trong quần chúng để cổ
vũ phong trào cách mạng.
Trong bài giảng về viết tin, ông Hoàng Tuấn, Tổng Giám đốc Thông tấn xã
Việt Nam kể: Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, khi chưa tìm ra một
điển hình nông dân giỏi hưởng ứng lời kêu gọi tăng gia sản xuất của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ông đã cho bịa ra câu chuyện về một người nông dân
gương mẫu vỡ hoang trồng khoai sắn. Không ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
tin đó, đã hỏi địa chỉ người nông dân để tặng thưởng huy hiệu. Ông Tuấn
đành phải báo cáo thật là mình cho bịa ra “điển hình” để cổ vũ phong
trào.
Trong chiến tranh rất cần có những điển hình xả thân vì chiến thắng.
Nhiều tên tuổi được báo chí loan truyền (theo sự hướng dẫn của các
chính uỷ và Ban Tuyên huấn Đảng) đã đi vào lịch sử. Có nhiều chuyện
nghe cứ lung linh như huyền thoại, nhưng không mấy ai muốn (hoặc dám)
nghi vấn. Ví dụ như tại sao anh Phan Đình Giót không dùng vật gì mà lại
lấy thân mình lấp lỗ châu mai?
Gần 30 năm sau chiến tranh, nhân kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng Điện
Biên Phủ nhà báo Lưu Trọng Văn đã hết sức công phu sưu tầm tài liệu
viết một loạt bài đăng trên 5 kỳ tạp chí Kiến thức Gia đình (phụ bản báo Nông nghiệp Việt Nam) chứng minh rằng:
Không có chuyện Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai;
Không có chuyện Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo;
Cũng không có chuyện (thời chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân của Mỹ) giữa trận địa pháo, Nguyễn Viết Xuân trước khi tắt
thở gắng sức hô to: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn!”.
Tất cả các chiến sĩ nói trên đều chiến đấu rất ngoan cường, hy sinh
rất anh dũng, góp phần cho chiến thắng. Tuy nhiên trước lúc hy sinh tất
cả họ đều không có ai làm cái việc mà sau này các nhà báo đã tô vẽ.
Những bài báo của Lưu Trọng Văn đăng trên một tạp chí ít người đọc
nhưng đã làm cho ông Nguyễn Khoa Điềm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban
Tuyên huấn Trung ương tức giận phê phán gay gắt.
Cũng năm đó, Lưu Trọng Văn trích Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, đoạn kể Dương Văn Minh chủ động đầu hàng như là thực hiện một nhiệm vụ cao cả, đăng trên Nhà báo và Công luận
cuối tháng (của Hội Nhà báo Việt Nam), số kỷ niệm ngày 30 tháng 4. Báo
này vừa phát hành đã bị thu hồi, (nhưng không cho đưa tin lý do bị thu
hồi) và bị đình bản. Lý do thu hồi thực sự là ở thời điểm đó chưa cho
phép đề cao vai trò ông Dương Văn Minh, mà đề cao sức mạnh của các quân
đoàn buộc ông phải hàng phục. (Dù đã được ông Võ Văn Kiệt đọc, ông Trần
Bạch Đằng viết lời giới thiệu, quyển hồi ký này vẫn buộc phải biên tập
và in lại).
Mới đây, trong cuộc góp ý kiến cho một tờ báo đang sa sút, ông Xuân Cang nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động
tâm sự: Ngay khi bước vào nghề làm báo ông đã dặn mình, bất cứ hoàn
cảnh nào cũng phải nói cho được sự thật. Nhưng rồi thực tế đã dạy ông
điều còn quan trọng hơn là phải biết cách nói sự thật. Ông kể, năm 1986
ông cho đăng bài viết của ông Lê Giản, nguyên Giám đốc Nha Công an đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong bài có câu “nhà đã dột
từ nóc rồi”. Vì câu đó, ông bị ban Tuyên huấn Trung ương Đảng giũa te
tua. Người ta hỏi, ông không biết nói “nóc nhà” là ám chỉ Bộ Chính trị
hay sao? (Thực ra nhà thơ Việt Phương là người đầu tiên có ý nghĩ này
trong câu thơ “Bùn đã vấy đến chín tầng mây”. Ông đã phải trả giá bằng
những năm rời khỏi bàn viết trong dinh Thủ tướng để đi lao động cải tạo
tư tưởng ở nông trường). May cho ông Xuân Cang, thời điểm này vừa bắt
đầu Đổi mới cho nên ông được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thông cảm cho
làm bản kiểm điểm, tránh không được tái phạm. Ông Xuân Cang kết luận:
“Cho đăng bài viết đó là không biết cách nói sự thật!” Người nghe lấy
làm tiếc vì ông không cho biết trước cái sự thật “nhà đã dột từ nóc
rồi” thì phải biết dùng cách nói nào để không bị giũa te tua? Chẳng lẽ
cách tốt nhất là… cất bút?
Trong tập hồi ký của các nhà báo lão thành ở Thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản năm 2003 có bài “Làm báo không dễ” của nguyên Tổng Biên tập báo Người Lao Động.
Sau khi đọc lại bài hồi ký của mình đã được in, ông than rằng: “Có lẽ
phải viết thêm bài ‘Viết hồi ký cũng không dễ’”. Ông đã hỏi vì sao cắt
bỏ và sửa lại nhiều chỗ quan trọng, người biên tập đáp: “Khi ông chủ
nhiệm Câu lạc bộ Nhà báo Cao tuổi đưa bài này sang cho biên tập đã có
lời răn đe: “Cậu muốn ở tù thì đăng nguyên văn bài này!” Mình phải cố
cắt bỏ, sửa chữa để đăng được bài cho ông đấy!” Vậy là dù quá đau vì
bài bị cắt sửa trái ý mình, ông cũng phải cám ơn người biên tập.
Bài hồi ký nói trên kể lại mấy bài báo viết những sự thật không được nhà cầm quyền bằng lòng:
Một là chuyện ông La Ngọc Toàn, chủ nhiệm hợp tác xã cơ khí Đông Tâm
tham nhũng và đánh đập những xã viên dám tố cáo ông ta. Bí thư quận uỷ
quận Gò Vấp đòi toà báo phải đính chính bài viết và xin lỗi ông La Ngọc
Toàn với lý do: Ông Toàn hiện đang là nòng cốt trong người Hoa của
quận. Cùng lúc, chủ tịch Uỷ ban Nhân dân TPHCM có ý kiến phê bình rằng
đánh ông Toàn là vô tình đánh vào “Lá cờ đầu của ngành hợp tác xã” đang
cần được cổ vũ. Tờ báo không đính chính, nhưng không thể tiếp tục phơi
bày những sai trái của ông Toàn và phải để yên cho người ta giới thiệu
ông ra ứng cử vào Hội đồng Nhân dân Thành phố khoá đầu tiên. Ông Toàn
đắc cử với số phiếu cao, được báo Đảng ca ngợi như một nhà quản lý xuất
sắc, rồi sau đó ít lâu ông ta ôm một khoản tiền lớn lặn mất tăm, để lại
món nợ làm sập đổ hợp tác xã cơ khí Đồng Tâm. Những chữ “Ông chủ tịch
Uỷ ban Nhân dân thành phố” trong bài hồi ký đã được sửa lại là “Có đồng
chí lãnh đạo thành phố” để không ai có thể căn cứ vào thời điểm bài báo
viết mà suy ra ông chủ tịch chính là đồng chí Võ Văn Kiệt đáng kính!
Chuyện thứ hai xảy ra năm 1983, báo đăng bài viết về ông Nguyễn Văn
Tài, giám đốc xí nghiệp hoá màu Tân Bình phơi nắng công nhân và cắt
tiêu chuẩn gạo của họ. Sau hôm báo đăng bài này, anh Tổng Biên tập lên
văn phòng Thành uỷ dự họp về công tác tuyên truyền giáo dục. Vừa thấy
anh bước vào, bí thư Thành uỷ Nguyễn Văn Linh kêu lên: “A, ông báo Công
đoàn! Tại sao ông a thần phù đánh vào mô hình tiên tiến của thành phố
mà không hỏi ý kiến tôi?” Tổng Biên tập đáp: “Thưa anh Mười, chúng tôi
rất thận trọng khi làm việc này. Bài báo hoàn toàn chính xác khi nêu
các hành vi phạm pháp của ông giám đốc Tài…” Bí thư Nguyễn Văn Linh tức
giận ngắt lời: “Chao ơi, đến giờ này mà anh còn cãi rằng anh đúng sao?
Anh sai về quan điểm nhìn nhận sự việc. Đồng chí giám đốc này áp dụng
hình thức kỷ luật sắt theo kinh nghiệm học được từ nước bạn Cộng hoà
Dân chủ Đức. Nhờ có kỷ luật sắt mà Đông Đức trở thành ‘tủ kính’ của phe
xã hội chủ nghĩa, đối điện vững vàng trước Tây Đức tư bản. Quần chúng
bao giờ cũng có ba loại: tiên tiến, trung bình và lạc hậu. Người cộng
sản phải biết nắm lấy quần chúng tiên tiến, thúc đẩy phong trào, lôi
kéo những người trung bình và giáo dục, kỷ luật những người lạc hậu.
Các anh nhân danh bảo vệ người lao động, nhưng thực ra là theo đuôi
quần chúng lạc hậu. Cái đó Lenin gọi là chủ nghĩa công đoàn, không phải
quan điểm đúng đắn của người cộng sản!” Ông đã muốn ngưng lời, nhưng
thấy anh Tổng Biên tập có vẻ cương, chưa chịu ngồi xuống, hình như đang
chờ ông dứt lời để tranh cãi. Ông cáu kỉnh hét lên: “Đồng chí ngồi
xuống đi chứ!” Anh Tổng Biên tập lưỡng lự rồi miễn cưỡng ngồi xuống vì
mọi người đang chờ bắt đầu cuộc họp với nội dung khác. Hôm sau, anh bàn
với Công đoàn Thành phố kiến nghị tổ chức thanh tra xí nghiêp hoá màu
Tân Bình. Đoàn thanh tra cố kéo dài thời gian, cuối cùng lựa chiều kết
luận theo ý của bí thư Thành uỷ, dành cả hai trang phê phán các nhà báo
quá non nớt về chính trị đã “đánh” một ông giám đốc có những biện pháp
quản lý tiên tiến nhất thành phố! Anh Tổng Biên tập buộc lòng phải tung
một tin do anh em công nhân cung cấp. Đó là chuyện bà vợ ông bí thư
Thành uỷ gửi tiền vào xí nghiệp hoá màu Tân Bình với lãi suất cao và
hằng tháng dùng xe của bí thư Thành uỷ đến lĩnh tiền lãi. Tuy sự việc
không phải là “tiêu cực”, nhưng anh em công nhân nghi vấn: Có phải vì
mối quan hệ này mà bà nói tốt cho giám đốc xí nghiệp hoá màu Tân Bình?
Rồi ông bí thư tin vợ hơn tin nhà báo? Khi biết nguồn tin ngoài luồng
này, ông Linh rất tức giận nhưng đã hành xử đúng đắn: Ông tuyên bố
trước Ban Thường vụ Thành uỷ xin rút khỏi trách nhiệm chỉ đạo việc
thanh tra xí nghiệp hoá màu Tân Bình và trao việc này lại cho ông Phan
Minh Tánh, phó bí thư Thành uỷ. Dưới sự chỉ đạo của ông Phan Minh Tánh,
hai tháng sau đoàn thanh tra công bố bản kết luận chính thức ngược hẳn
với bản dự thảo của họ trước kia: “Giám đốc xí nghiệp hoá màu Tân Bình
đã vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng, không đủ tư cách tiếp tục giữ
cương vị lãnh đạo”.
Mặc dù ông Nguyễn Văn Linh qua đời đã lâu, nhưng bài hồi ký về vụ hoá
màu Tân Bình không được phép nêu rõ tên ông (người biên tập đã sửa lại
thành “một đồng chí lãnh đạo Thành uỷ”) và những chữ “tức giận”, “cáu
kỉnh”, “hét lên” không thích hợp với ngôn ngữ của một đồng chí mà chỉ
ít lâu sau đã trở thành “Tổng Bí thư Đổi mới”. Người biên tập đã chịu
khó thay cho ông những từ ngữ có “văn hoá lãnh đạo” như: “nhẹ nhàng
hỏi”, “tỏ vẻ không bằng lòng”… Ngay những lời thuyết giảng rất hùng hồn
của ông về quan điểm cộng sản khác với chủ nghĩa công đoàn cũng phải
cắt bỏ, bởi vì đồng chí ấy không thể nói nhầm!
Nói về tác hại của việc kiểm duyệt, cắt xén sự thật, nhà văn Nga vĩ đại
A. Solzhenitsyn đã viết: “Đây không chỉ đơn thuần là bóp nghẹt tự do mà
là sự gắn xi vào trái tim dân tộc đó, xoá bỏ ký ức của dân tộc đó”. Vì
vậy rất cần phục hồi những bài viết đã bị kiểm duyệt cắt bỏ, nếu còn có
thể tìm lại.
Một lần, tôi đem vấn đề “báo chí cách mạng và sự thật” bàn với ông
Trương Tịnh Đức, nguyên uỷ viên Ban Biên tập Đài Phát thanh Giải phóng
và là giảng viên Trường Báo chí Giải phóng. Ông Trương Tịnh Đức kể: Sau
Mậu Thân 1968, các cơ quan lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng miền Nam
không còn đất để trú đóng an toàn đã phải kéo sang ở nhờ đất nước bạn
Campuchia. Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam đã có sáng kiến chỉ
đạo Đài Phát thanh Giải phóng soạn bài tường thuật về một cuộc hội nghị
đã được tổ chức rất hoành tráng ở giữa vùng giải phóng miền Nam. Lúc ấy
ông Trương Tịnh Đức tỏ ý băn khoăn làm như vậy là vi phạm quá nghiêm
trọng tính chân thật của báo chí. Ông Võ Nhân Lý, giám đốc Thông tấn xã
Giải phóng thuyết phục: “Ông đừng quá trung thành với lý thuyết. Trong
hoàn cảnh chiến tranh chúng ta phải đặt lợi ích của cách mạng lên trên
tính chân thật ông ạ. Báo chí cũng là một mặt trận mà!”
Dù ở hoàn cảnh nào, khi đã một lần đặt lợi ích lên trên sự thật thì từ
đây các lợi ích sẽ có nhiều lý do để đòi phải tiếp tục được đặt lên
trên sự thật. Đầu tháng 6/2009, trong cuộc hội nghị về “Định hướng
thông tin”, ông Đặng Khắc Thắng, phó giám đốc Sở Thông tin Truyền thông
tỉnh Nghệ An đã cho rằng: “Bảo định hướng thông tin phù hợp với lợi ích
xã hội, thật ra là phù hợp với ý kiến của lãnh đạo chứ không hẳn phù
hợp với lợi ích của nhân dân!” Cứ xem cách chỉ đạo thông tin về Dự án
Bauxite, vấn đề mà cả nước đang quan tâm hiện nay thì quả đúng như phát
biểu của ông Thắng. Báo chí lề phải chỉ đăng ý kiến của những người hùa
theo Bộ Chính trị, tất cả những phản biện không báo nào đăng. Tệ hại
hơn, có hai bài báo (của Xuân Quang đăng trên Nhân Dân và Hà Văn Thịnh trên Lao Động) răn đe những trí thức ký kiến nghị ngừng Dự án.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc có hai câu chua xót về tình trạng này:
“Khí trời mỗi ngày ta thở,
Bị ô nhiễm bởi bao lời dối trá!”
Báo chí nói tiếng nói của ai?
“Báo chí là công cụ của Đảng!” Nguyên lý đó những người làm báo Việt
Nam đều phải thuộc nằm lòng. Sau Đổi mới, ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh đã có sáng kiến quan trọng thêm cho báo chí Việt Nam mệnh đề thứ
hai: “Là diễn đàn của quần chúng”. Một vài cán bộ báo chí quá say sưa
với Đổi mới cứ tưởng cái “diễn đàn” của ông Linh đã hoàn toàn chấp nhận
tự do tư tưởng, nhà báo có thể phản biện mọi chính sách đã ban hành.
Nhầm lẫn đó khiến không ít người phải trả giá.
Trong cuộc hội nghị “quán triệt nghị quyết Hội nghị Trung ương” (khoá
6) ở buổỉ thảo luận tổ, ông Bùi Tín, khi đó là phó Tổng Biên tập báo
Nhân Dân kể, ông rất khó trả lời khi các đồng nghiệp phương Tây hỏi vì
sao Đảng Cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa nguyên? Ông Bùi Tín cho
rằng Đảng nên chấp nhận đa nguyên để thực hiện dân chủ. Theo ông, thực
tế Việt Nam đã có những yếu tố đa nguyên: Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ
và Đảng Xã hội hợp tác với nhau rất tốt đẹp; Mặt trận Tổ quốc gồm nhiều
đoàn thể có những tiếng nói khác nhau; Các tờ báo của mọi giới, mọi
từng lớp thể hiện những mong muốn rất đa dạng… Ông Bùi Tín nói dài hơn
30 phút, được toàn tổ gồm những tổng biên tập báo, đài phát thanh, đài
truyền hình lắng nghe. Tổ trưởng tổ này là ông Thái Ninh, Phó trưởng
ban Tuyên huấn Trung ương không ngắt lời mà có vẻ khuyến khích ông Bùi
Tín. Không ai ngờ trong buổi tổng kết hội nghị, ông Đào Duy Tùng, uỷ
viên Bộ Chính trị, phụ trách cả khối Tuyên huấn, Báo chí, Văn nghệ đã
cao giọng phê phán: “Thật đáng chê trách là tại cuộc họp gồm toàn cán
bộ cốt cán của Đảng mà lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ thực hiện
đa nguyên! Đồng chí đó không biết rằng đa nguyên là hình thức dân chủ
mị dân của chủ nghĩa tư bản. Đòi đa nguyên được, rồi sẽ đòi đa đảng!”
Hôm đó ông Bùi Tín ngồi ở hàng ghế gần cuối hội trường, rất ít người
nhìn thấy ông hai tay chống cằm, mặt cúi gằm, mớ tóc dài rũ xuống hai
vai, không biết ông đang bực tức hay ngượng ngùng, nhưng vẻ thiểu não
thì lộ rõ.
Ít lâu sau, nhân có cơ hội đi công tác sang Pháp, ông Bùi Tín đã trình
bày một cách có hệ thống quan điểm của mình trong bài trả lời đài BBC
Việt ngữ. Thật ra, trước đó ở trong nước đã có nhiều người từng nói
những điều ông Bùi Tín nêu ra (như các ông Trần Xuân Bách, Hoàng Minh
Chính, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hộ, Phan Đình Diệu…) Phải chi ông Bùi
Tín tiếp tục nói ở trong nước, dù lời lẽ có nhẹ hơn đôi chút, vẫn dễ
được đồng bào lắng nghe hơn.
Năm 1989, nhân dịp đi công tác ở Bắc Triều Tiên, bà Kim Hạnh Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ đã viết một bài bút ký miêu tả rất sinh động tệ sùng bái cá nhân ở đất nước này đối với lãnh tụ Kim Nhật Thành. Tờ Tuổi Trẻ đăng bài bút ký của bà vừa phát hành thì Bắc Triều Tiên lập tức gửi công hàm phản đối Việt Nam bôi nhọ lãnh tụ và nhân dân họ.
Cuối năm đó, trong cuộc hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động báo
chí do ông Đào Duy Tùng chủ trì, chuyện phản ứng của Bắc Triều Tiên
được đem ra mổ xẻ. Ông Hà Xuân Trường, uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng
Biên tập Tạp chí Cộng Sản
xin hiến kế. Ông Trường cho rằng sở dĩ Bắc Triều Tiên có cớ phản ứng
bài báo của Kim Hạnh là do cơ chế quản lý báo chí của Đảng ta: “Báo là
công cụ của Đảng, báo nói tiếng nói của Đảng”. Để tránh bị phản ứng
kiểu này, Đảng nên thay đổi cơ chế quản lý báo chí: Đảng lãnh đạo báo
chí, nhưng mỗi tờ báo có tiếng nói riêng của mình, chứ không phải chỉ
nói tiếng nói của Đảng”…. Hình như ông Trường chưa nói hết ý mình nhưng
tiếng đập bàn khá mạnh của ông Tùng đã cắt ngang lời ông. Ông Tùng với
vẻ mặt giận dữ cố nén, gằn từng tiếng: “Đồng chí phụ trách cơ quan lý
luận của Đảng, chẳng lẽ đồng chí quên rằng báo chí là công cụ của Đảng
là một vấn đề có tính nguyên tắc? Tôi xin nhắc lại cho tất cả các đồng
chí phải ghi nhớ: Báo chí là công cụ của Đảng, nói tiếng nói của Đảng!
Nguyên tắc đó là bất di bất dịch, không bao giờ được phép thay đổi,
không có đổi mới ở chỗ này!” Ông Hà Xuân Trường đỏ bừng mặt, im lặng.
Ông Đào Duy Tùng hạ giọng: “Vấn đề của chúng ta là phải chọn những
người có trình độ chính trị vững vàng làm tổng biên tập để không phạm
phải những lỗi quá ấu trĩ”.
Ông Hà Xuân Trường im lặng suốt buổi họp còn lại. Trước đây, ông Trường
đã một lần bị hụt chân khi cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Đặng Kim
Giang, Nguyễn Kiến Giang… tán thành quan điểm “xét lại hiện đại” của
Tổng Bí thư Khruchchev. Tất cả các ông kia đều phải vô tù, chỉ ông
Trường mau mắn xin sám hối cho nên được thăng quan tiến chức.
Lần này, đảng không bỏ qua cho ông. Đại hội Đảng khoá 7, mặc dù ông hãy
còn trẻ, khỏe hơn nhiều người khác, nhưng đã không được đề cử vào Ban
Chấp hành Trung ương và phải trao lại chiếc ghế Tổng Biên tập Tạp chí Cộng Sản cho ông Hà Đăng, dù ông này không có nhiều lý luận bằng ông.
Bà Kim Hạnh lại phạm một lỗi mới không thể tha thứ, đó là đưa lên Tuổi Trẻ
một tin rất cũ: Bác Hồ đã từng có vợ! Toàn thế giới đã biết chuyện này,
nhưng người Việt Nam chưa được phép biết. Lần này bà bị cấm làm báo vô
thời hạn! Nhưng thật đáng khen bà đã có sáng kiến đẻ ra tờ Sài Gòn Tiếp Thị bằng cách nhẫn nại âm thầm đứng sau lưng một người khác.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội 6 Đổi mới của Đảng, Quốc hội Việt Nam xây
dựng Luật Báo chí. Tại cuộc họp này, giáo sư Lý Chánh Trung, một cây
bút báo chí nổi tiếng trước 1975 (với những bài viết chống Mỹ và chính
quyền VNCH, đặc biệt có bài viết ca tụng Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc vĩ
nhân khi cụ từ trần) đề nghị cho xuất bản báo chí tư nhân, đúng tinh
thần của Hiến pháp và phù hợp với xu thế mở rộng dân chủ, hội nhập. Có
lẽ giáo sư không thể ngờ vấn đề ông đặt ra lại gây bực tức cho các nhà
lãnh đạo của Đảng đối với ông, đặc biệt là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Người chống lại ông mạnh mẽ nhất không phải các đại biểu là đảng viên
mà là bà luật sư Ngô Bá Thành, người đồng đội quả cảm của ông ở nội
thành Sài Gòn ngày nào. Cũng khoảng thời gian này, với tư cách Phó Chủ
tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật, giáo sư Trung tổ chức cho nhà
văn trẻ Dương Thu Hương nói về quyển tiểu thuyết Những Thiên Đường Mù
đang gây xôn xao dư luận bởi động tới một đề tài cấm kỵ trước Đổi mới.
Ông đã không ngờ, quyển sách này bị coi là vượt xa ranh giới Đổi mới,
một quyển sách chống Đảng! Giọt nước tràn ly. Giáo sư không được Mặt
trận Tổ quốc đề cử vào danh sách Quốc hội khoá kế tiếp. Tệ hại hơn, đây
đó râm ran rằng lợi dụng tình hình Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ, một số phần tử thuộc lực lượng thứ 3 đang âm mưu diễn
biến hoà bình, cụ thể là giáo sư Lý Chánh Trung tạo diễn đàn cho nhà
văn phản động Dương Thu Hương chửi Đảng, rồi dùng diễn đàn Quốc hội đòi
cho ra báo tư nhân. Tại cuộc họp cán bộ cao cấp quân đội ở Hội trường
Quân khu 7, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đến nói toẹt câu chuyện
trên nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cho các sĩ quan. Ông Bộ trưởng
đang hùng hồn thì bất ngờ một sĩ quan trẻ đập bàn hét lớn: “Nói láo!”
rồi đứng lên rời khỏi hội trường. Lập tức cảnh vệ đuổi theo đưa anh gặp
đại tá phó Hiệu trưởng. Đó là đại úy Lý Tiến Dũng, quân nhân có quân
hàm thấp nhất cuộc họp, vừa mới từ chiến trường chống bọn diệt chủng
Pol Pot trở về. Trả lời ông đại tá, Lý Tiến Dũng nói: “Nếu ban nãy ngồi
đối diện với ông ấy, tôi đã cho một cái tát! Bởi vì tôi không thể ngồi
nghe kẻ nào chửi cha mình!”. Sau đó, anh cởi áo lính, đi tập viết báo.
Hơn 10 năm sau, anh trở thành một cây bút chính luận sắc bén, rồi trở
thành Tổng Biên tập báo Đại Đoàn Kết và nổi tiếng vì dám quyết
định đăng thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu không phá bỏ Hội
trường Ba Đình, sau khi đã có lệnh cấm của Ban Tuyên huấn Trung ương
Đảng (Có 9 tờ báo không dám đăng lá thư này.) Anh bị bãi chức Tổng Biên
tập bởi đi không đúng “lề phải” của ông Lê Doãn Hợp, lại còn viết bài
xài xể phó trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Hồng Vinh là người thiếu
năng lực và không có tư cách. (Hồng Vinh cũng là người không cho báo Quốc Tế của
Bộ Ngoại giao đăng bài của ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt chất vấn, nhưng
không được Trưởng ban Tuyên huấn Nguyễn Khoa Điềm trả lời).
Trong cuộc họp Hội đồng Nhân quyền năm 2009, nhiều quốc gia yêu cầu
Việt Nam cho xuất bản báo chí tư nhân, đã bị Việt Nam bác bỏ. Thật ra,
dù cho ra báo chí tư nhân mà vẫn phải chịu sự chỉ đạo của Ban Tuyên
huấn Đảng Cộng sản thì cũng không thực sự có tự do báo chí, không thoát
khỏi chiếc “kim cô” công cụ. Những năm vận hành của tờ Tin Sáng sau 1975 đã chứng minh điều ấy. Tin Sáng
không phải là tờ báo được thông tin tự do, bởi thường xuyên phải nhận
chỉ thị “định hướng”. Thế mà Đảng vẫn không yên tâm, vẫn buộc nó sớm
“hoàn thành nhiệm vụ dẹp tiệm” .
Nhà báo là chiến sĩ
Nhà báo được Đảng Cộng sản vinh danh là “những chiến sĩ xung kích trên
mặt trận văn hoá tư tưởng”. Vinh dự này khiến cho nhiều người không
tích cực trau giồi nghề nghiệp mà chỉ cố nâng cao lập trường tư tưởng.
Cứ đọc lại báo chí Việt Nam hồi Cải cách Ruộng đất và chống Nhân văn -
Giai phẩm sẽ thấy các chiến sĩ xung kích đã bóp méo sự thật, vu khống
trắng trợn như thế nào để biến hằng ngàn người dân vô tội trở thành bọn
cường hào gian ác, biến ông Nguyễn Hữu Đang, nhà yêu nước lão thành
(người thiết kế và chỉ đạo thi công lễ đài Ba Đình cho kịp buổi lễ
Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945), nhà báo, học giả Phan Khôi, nhà báo, nhà
văn Thụy An… trở thành những tên gián điệp nguy hiểm!
Những cây bút không “xung kích” theo đúng mục tiêu của Ban Tuyên huấn
Đảng đều bị loại bỏ từng thời kỳ. Sau giải phóng miền Bắc, nhà báo Hiền
Nhân và nhiều cây bút cũ của Hà Nội phải cất bút. Sau khi báo Tin Sáng
“hoàn thành nhiệm vụ dẹp tiệm”, đội ngũ này được phân loại, chỉ cho một
số ít người được tiếp tục làm báo. Chủ nhiệm Ngô Công Đức, Tổng Biên
tập Hồ Ngọc Nhuận được mời một cách lịch sự đi làm công việc khác. Ông
Nhuận được làm Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TPHCM, nghe có vẻ sang
trọng nhưng là để vô hiệu hoá cây bút báo chí sắc bén và trung thực
này. Nhiều cán bộ báo chí từ trước năm 1975 của “phong trào sinh viên,
học sinh đấu tranh...” nhưng trong quá trình làm việc tỏ ra không tuân
thủ sự chỉ đạo của Tuyên huấn Đảng cũng bị loại khỏi “đội ngũ xung
kich” như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Kim Hạnh, Lê Văn Nuôi… Tổng Biên tập
Nguyên Ngọc, vị đại tá, nhà văn, vì viết bản Đề dẫn đòi mở rộng tự do
sáng tác và cho đăng Nguyễn Huy Thiệp phơi bày ung bướu trong cơ thể
“xã hội chủ nghĩa tốt đẹp”, phải bị bãi chức. Chỉ vì bênh vực ông
Nguyên Ngọc, nhà thơ kiêm nhà báo Bùi Minh Quốc đã bị khai trừ khỏi
Đảng và… treo bút.
Năm 1994, làng báo Việt Nam xảy ra chuyện ầm ĩ ở báo Lao Động.
Bốn cán bộ cốt cán của báo là Tổng thư ký toà soạn Lý Quý Chung, Trưởng
ban Kinh tế - Xã hội Trần Trọng Thức, Chánh văn phòng Nguyễn Hữu Tính,
cây bút phiếm luận Ba Thợ Tiện (tức nhà thơ Hoàng Thoại Châu) đề nghị
Tổng Biên tập chọn giữa bốn người họ, hoặc ông Hồng Đăng Phó Tổng biên
tập, vì ông này hách dịch tới mức anh em không chịu nổi. Hồng Đăng phản
công lại bằng cách bắn tin với Tổng cục 2 (Tình báo thuộc Bộ Quốc
phòng) rằng ở báo Lao Động có một nhóm âm mưu thực hiện “diễn
biến hoà bình” mà người cầm đầu là Lý Quý Chung, nguyên Tổng trưởng Bộ
Thông tin chính phủ Dương Văn Minh. Nhóm này được Tổng Biên tập báo Lao Động
bao che. Ở thời điểm Liên Xô và Đông Âu vừa sụp đổ, lời vu cáo này đã
làm Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam lo sợ, vội vàng họp ngay và có
quyết định phải tìm mọi cách vô hiệu hoá âm mưu này! Bộ Chính trị cho
rằng Tổng Biên tập báo này có 4 khuyết điểm:
1. Đưa vào cơ quan báo nhiều người không đảm bảo an ninh chinh trị: Lý
Quý Chung - Bộ trưởng chế độ cũ, Trần Trọng Thức - nhà báo cũ, họa sĩ
Chóe ở tù cải tạo hơn 10 năm, nhà thơ Hoàng Hưng ở tù 3 năm… [1]
2. Những năm qua, Lao Động có nhiều loạt bài đã làm cho Bộ
Chính trị lo lắng, như trong một tháng mà báo này phê bình đến 4 ông bộ
trưởng. Một chính phủ có 4 bộ trưởng bị bêu xấu thì làm sao còn uy tín
trước nhân dân và nước ngoài?
3. Là tờ báo trung ương, tại sao Ban thư ký toà soạn của báo lại đặt ở Sài Gòn? Đây là vi phạm nguyên tắc rất nghiêm trọng. [3]
4. Cuối cùng là tình trạng mất đoàn kết. Bộ Chính trị cho rằng phải
thay Tổng Biên tập và chuyển những người có “nghi vấn chính trị” làm
công tác khác.
Sau một thời gian xem xét, ông Nguyễn Văn Tư, Chủ tịch Tổng liên đoàn
Lao động đã kết luận một cách đúng đắn và dũng cảm rằng “không có âm
mưu chính trị, chỉ có mất đoàn kết”. Tuy vậy, để yên lòng cấp trên, ông
Võ Tự Thành Vụ trưởng Vụ Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng đã bỏ
ra một buổi sáng cố thuyết phục Tổng Biên tập báo Lao Động: Có thể dùng Lý Quý Chung làm công việc của Tổng thư ký toà soạn, nhưng nên đổi chức danh là trợ lý
của Tổng Biên tập. Bởi vì Lý Quý Chung có lý lịch như thế, không thể
được phép giữ chức danh Tổng thư ký toà soạn. Tổng Biên tập báo Lao Động
kiên quyết bác ý kiến đó với lý do: “Làm như vậy là lừa dối cấp trên và
làm nhục một trí thức từ chế độ cũ đến với cách mạng. Tại sao không coi
trọng việc làm thực sự mà lại coi trọng cái danh nghĩa?” [4].
Để tỏ ra nghiêm túc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị, Tổng Liên đoàn Lao động quyết định kỷ luật Tổng Biên tập báo Lao Động
với hình thức cho về hưu.. Một số nhà báo đồng loạt phản ứng quyết định
trên. Bắt đầu là Tổng thư ký toà soạn Lý Quý Chung đưa đơn thôi việc
[5]. Tiếp theo Lý Quý Chung là Trần Trọng Thức, họa sĩ Chóe, Ba Thợ
Tiện, Lưu Trọng Văn [5], tiếp theo là Đinh Quang Hùng, Nguyễn Trung
Dân, Lê Xuân Tiến…
Đây là một sự kiện chưa từng có trong lịch sử báo chí cách mạng Việt
Nam. Ban Tuyên huấn Đảng Cộng sản coi đây thực sự là một vụ phản ứng
tập thể có tính chất chính trị rất nghiêm trọng cần phải phê phán, ngăn
ngừa.
Có những người đã được coi là đạt tiêu chuẩn làm báo, nhưng sau đó vì
có quan hệ với người không được tin cậy thì cũng phải bị loại. Ông
Nguyễn Ngọc Lan không cùng quan điểm với Đảng về vụ Phong thánh tử vì
Đạo thì vợ ông, bà Thanh Vân, dù đang là cây bút đắc lực của tờ Tin Quận 5 cũng phải bị sa thải. Trong Nhật ký 1990-1991,
Nguyễn Ngọc Lan viết theo lời chị Thanh Vân: Chỗ làm vẫn cần, nhưng có
quyết định cho nghỉ việc của Uỷ ban Nhân dân quận và Quận uỷ. Tru di
tam tộc đó mà. Ông trưởng phòng và bà phó phòng đùn đẩy nhau việc đưa
tờ quyết định nghỉ việc cho Thanh Vân, vì thấy nó kỳ cục quá, không mở
miệng được. Các bạn đông nghiệp thì được một bữa khóc…
Ông Trần Trọng Thức nhiều năm là giáo viên thỉnh giảng của Đại học Báo
chí TP Sài Gòn, nhận xét nội dung đào tạo người làm báo như sau: Chương
trình đại học báo chí không coi trọng đúng mức phần nghiệp vụ báo chí.
Trong 194 đơn vị học trình, chỉ có 30 đơn vị học trình cho các môn tác
nghiệp báo chí. Các thể loại thông tấn chỉ có 4 đơn vị học trình, bằng
số học trình của các môn văn học Nga, văn học Trung Quốc… Chính vì phải
đào tạo “Nhà báo là chiến sĩ sắc bén về tư tưởng”, cho nên các học phần
về triết học, chính trị Mác-Lê được đặt cao hơn các bài học về nghiệp
vụ. Học viên báo chí được tuyển với tiêu chuẩn chính trị (lý lịch gia
đình, quan điểm lập trường), cao hơn nghề nghiệp, cho nên có 50% học
viên không có năng khiếu làm báo, có 20% số người tốt nghiệp đại học
báo chí không viết được bài.
Từ sau 30/4/1975, báo chí cách mạng có gì mới?
Xin nói rằng: Có! Báo chí miền Bắc trước 1975 là hoá thân của loại
truyền đơn tuyên truyền. Những sự kiện lớn như Đại hội Đảng, Kỳ họp
Quốc hội… các báo chỉ được phép đăng lại đúng bản tin của Thông tấn xã
Việt Nam.
Điều đặc biệt mới mẻ sau 1975 là sự có mặt của tờ nhật báo Tin Sáng và tạp chí Đứng Dậy. Mặc dù cũng phải lựa lời mà nói theo cái khuôn của Ban Tuyên huấn Đảng đưa ra, Tin Sáng có cách viết mới mẻ gần với sự thật hơn những đứa con ruột của Đảng. Cây bút trào lộng Xích Điểu thích làm cộng tác viên cho Tin Sáng hơn là viết báo Giải Phóng
mà ông là Phó Tổng biên tập (với tên cúng cơm Trần Minh Tước, nguyên Vụ
trưởng Vụ Báo chí Việt Nam). Đến nỗi ông Nguyễn Thành Lê, Tổng Biên tập
báo Giải Phóng đã khiển trách ông mê viết cho Tin Sáng hơn
viết báo nhà. Có lần tôi tò mò hỏi thì được ông Xích Điểu trả lời rất
đơn giản là: “Họ biết trân trọng bài viết có nghề, còn lãnh đạo của ta
thì chuộng cái chính trị sống sít! Họ trả nhuận bút cũng đúng với chất
xám mình bỏ ra, còn lãnh đạo báo ta thì chỉ khen chê suông!”
Đương nhiên tờ Tin Sáng có số phát hành cao hơn báo Đảng. Đó là điều chế độ không thể chấp nhận.
Sau khi Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ” và dẹp tiệm, Ban Tuyên huấn của Đảng sàng lọc những người ít gai góc, đưa về tăng cường cho hai tờ báo Sài Gòn Giải Phóng và Tuổi Trẻ. Nhóm về Tuổi Trẻ
nhanh chóng biến tờ báo này từ một tờ “nội san của Thành đoàn” trở
thành một tờ báo thông tin đa dạng, sinh động. Sở dĩ nhóm này làm được
điều đó là do có hai nhà báo giỏi là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức.
Nguyên nhân thứ hai không kém quan trọng là ông Tổng Biên tập Võ Như
Lanh (vào nghề từ việc làm nội san của phong trào sinh viên, học sinh
đấu tranh....) đã mạnh dạn giao việc cho các anh có nghề. Trái lại, bên
báo Sài Gòn Giải Phóng, Tổng Biên tập vốn là Tổng Giám đốc
Thông tấn xã Giải Phóng, đương nhiệm phó trưởng ban thứ nhất Ban Tuyên
huấn Thành uỷ, người từng có lý thuyết “lợi ích cách mạng cao hơn sự
thật”, đâu có thể để cho các nhà báo chế độ cũ dạy mình phải làm báo
như thế nào!
Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức mời nhà báo Thép Mới cùng thảo luận tìm cho Tuổi Trẻ phương châm phát triển gồm 3 từ: Đỏ, Trẻ, Sài Gòn. Tờ Tuổi Trẻ
không lâu sau đã được bạn đọc vồ vập. Ban đầu bạn đọc của nó là sinh
viên, học sinh, người lao động, dần dần nó giành cả bạn đọc là cán bộ,
đảng viên của báo Đảng, khiến báo chí cả nước nhìn vào nó để học hỏi
đổi mới nội dung và hình thức. Tuy vậy những “ông thầy” ở đây đã không
được quý trọng. Chị Kim Hạnh, Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ (sau
đó là ông Võ Như Lanh), đã từng thổ lộ: Quản lý các anh này luôn bị
trên đe dưới búa. Cấp trên thì lo ngại dò xét, còn các anh thì hay đấu
tranh khi có những bài bị gác không thoả đáng. Cuối cùng số đông trong
Ban biên tập muốn toà báo khỏi bị soi mói vì sự có mặt của các nhà báo
chế độ cũ. Thế là xảy ra cuộc “di cư” của hai ông thầy Lý Quý Chung,
Trần Trọng Thức và kéo theo họ có bảy học trò từ Tuổi Trẻ xin sang Lao Động, đưa tới sự ra đời báo Lao Động Chủ Nhật năm 1990 nổi tiếng một thời. Trước đó, báo Lao Động chỉ
bán cho các tổ chức công đoàn mua bằng tiền “kinh phí”. Sau khi nhóm
anh em này về, nhiều cây bút xuất sắc cũng kéo nhau về, biến Lao Động
trở thành tờ báo mạnh nhất của báo chí cấp trung ương ở Việt Nam, tấm
gương đổi mới cho báo chí cả nước. Tiếc thay nó bị nghiêng đổ bởi một
lý do không đâu như đã kể ở trên.
Hai người góp phần to lớn đổi mới báo chí cách mạng Việt Nam là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức không được ghi nhận.. Ngay ở Tuổi Trẻ những ngày kỷ niệm thành lập báo cũng không ai đánh giá đúng công lao của họ.
Tuy nhiên, khi tự do báo chí chỉ là hình thức thì những cố gắng đổi mới
thật ra cũng chỉ là hình thức, không có mấy thực chất. Cái được nổi bật
nhất trong những năm đầu đổi mới là đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng, quan liêu. Tuy nhiên quan liêu, tham nhũng không hề yếu đi mà
càng ngày càng mạnh lên. Sau năm 2000, báo chí lép vế dần trước tham
nhũng, cho tới khi xảy ra sự kiện hai nhà báo chống tham nhũng bị bắt,
bị xử tù thì thế thượng phong của báo chí chống tham nhũng đã chấm hết.
Qua 20 năm đổi mới, báo chí cách mạng Việt Nam đang đứng trước hiện trạng bi kịch sau đây:
1. “Báo chí công cụ” đã làm cho những người làm báo Việt Nam
càng ngày càng thụ động, không có suy nghĩ độc lập, thui chột năng lực
sáng tạo. Người viết xã luận thì nhai đi nhai lại nghị quyết, bài năm
nay na ná bài năm ngoái. Người viết điều tra thì chỉ dựa vào kết luận
của cơ quan công an. Một lớp nhà báo thiếu lòng yêu nghề chỉ hám chức
tước, bổng lộc. Miệng thì nói phục vụ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực
bụng là nhằm mục tiêu trở thành những ông “quan báo”.
Trong tình trạng đạo đức băng hoại, có không ít nhà báo móc ngoặc làm tiền, trở thành giàu có một cách phi pháp.
Từ chỗ chỉ làm công cụ của Đảng, báo chí bắt đầu làm công cụ cho các
“đại gia”, bị họ sai khiến và khinh rẻ. Một phóng viên Thông tấn xã
Việt Nam đã bị con rể bà Tư Hường (một đại gia và là bạn của nhiều nhân
vật lãnh đạo cao nhất nước) tát giữa tiệc chiêu đãi mừng thành công
cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Đinh Thế Huynh
có công văn yêu cầu phải làm rõ, xử lý nghiêm vụ này trước pháp luật để
bảo vệ nhà báo. Nhưng vụ việc đến nay hơn một năm đã lặng lẽ chìm xuồng.
2. Hội nhập quốc tế sâu rộng, bị tấm gương của nhiều nền báo chí
tự do tương phản làm cho báo chí Việt Nam lộ rõ sự lạc hậu rất tệ hại
trước trào lưu dân chủ, nhân quyền. Một đất nước có hơn 700 tờ báo mà
luôn luôn bị các tổ chức nhân quyền quốc tế lên án là không có tự do
báo chí. Hiện có gần trăm tờ báo của các Đảng bộ tỉnh, thành phố in ra
đem phát không, rồi đem bán ve chai. Nhà báo cộng sản lão thành, ông
Nguyễn Văn Trấn, nguyên Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền Ban Tuyên huấn Trung
ương Đảng đã phải kêu lên trong quyển sách ông viết có tựa đề Gửi Mẹ và Quốc hội: Xin cho được tự do báo chí bằng với thời đô hộ của thực dân Pháp!
3. Tự do kinh tế đã tạo ra lớp doanh nhân đỏ đông đảo. Càng ngày
càng có nhiều con em của người có tiền được gửi đi du học ở các nước
tiên tiến. Xã hội Việt Nam đang hình thành một từng lớp trí thức trung
lưu có yêu cầu cao về quyền được thông tin kịp thời, chính xác, đa
dạng. Lớp người này phải tìm đến các nguồn thông tin của báo, đài nước
ngoài, các tờ báo mạng, các blog. Họ sẽ là lực lượng ngày càng lớn mạnh
đòi hỏi một nền báo chí tự do. Trong bài viết “Vì sao đạo đức băng
hoại“, tôi cho rằng đạo đức cách mạng xung khắc với Đổi mới. Nay lại
xin nói: Báo chí cách mạng cũng xung khắc với Đổi mới!
4. Để thoát khỏi sự kềm kẹp tự do báo chí, một phong trào viết
blog xuất hiện. Có địa chỉ blog được đông đảo người đọc tin cậy tìm đọc
như Blog Osin của nhà báo Huy Đức. Một luồng gió tự do từ các blogger
đang thổi bùng lòng khát khao quyền được thông tin của nhân dân từ lâu
bị bưng bít, khiến cho nổi bức xúc căng lên. “Đây chính là một thứ
quyền lực thứ năm” (Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng).
"Hoàn toàn có tự do, nếu đi đúng lề đường bên phải !"
Nói như vậy không khác nào bảo hãy vào nhà giam đi, ở trong đó sẽ tha hồ mà tự do!
Có lẽ, trong công cuộc Đổi mới ở Việt Nam, báo chí là một ngành vận hành theo chiều ngược, tức là càng ngày càng bị siết lại.
Giữa năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng truyền đạt ý kiến Bộ Chính trị, gồm mấy ý lớn sau đây:
- Kiên quyết không để tư nhân hoá báo chí dưới mọi hình thức và không
để tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng chi phối báo chí để phục vụ lợi
ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước.
- Kiên quyết đình chỉ các cơ quan báo chí không chấp hành đúng pháp luật, không thực hiện đúng tôn chỉ mục đích của đảng.
- Việc xem xét xử lý sai phạm của các cơ quan báo chí phải đươc thực
hiện đồng bộ giữa xử lý kỷ luật về chính quyền đi đôi với xử lý kỷ luật
về Đảng, xử lý người trực tiếp có sai phạm gắn với xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu và người có liên quan.
Từ tư tưởng chỉ đạo ấy mà có sự lựa chọn Bộ trưởng. Ông Lê Doãn Hợp là
mẫu người thích hợp. Ông này ăn nói thô bạo không cần giữ ý: “Tổng biên
tập là người của Bộ Thông tin và Truyền thông sau này cắm ở từng tờ
báo”. (Nhà thơ Hoàng Hưng gọi đây là dòng “ý nghĩ đen”). Ông tuyên bố
sẽ quản lý chặt cả báo mạng và các blog cá nhân. Là người chỉ huy đạo
quân chữ nghĩa của một đất nước ngàn năm văn hiến, nhưng ông ăn nói
không cần chọn từ ngữ chuẩn xác, cứ nói văng mạng như một kẻ vô học.
Trong cuộc “giao lưu trực tuyến với nhân dân”, ông Bộ trưởng đã giải
thích quản lý báo chí là: “Quản một cách có lý, bao gồm cả đạo lý và
nguyên lý. Đạo lý là ủng hộ người tốt (biết ủng hộ đảng), răn đe người
không tốt (chống đảng). Nguyên lý là tạo hành lang (lề phải) cho người
ta hành động”.
Nhiều ý kiến trên mạng cho rằng ông nói nghe buồn cười. Nhà báo Thuận Lý có bài viết trên báo Lao Động Cuối Tuần góp ý với ông rằng câu nói ấy nghe giống như dạy cho học sinh cấp 1!
Sự “quản lý” của ông Hợp theo tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị đã làm
cho báo chí cách mạng Việt Nam mấy năm qua có nhiều biểu hiện không
bình thường.
- Vụ báo chí Nhật Bản đưa tin Công ty PCI của họ hối lộ quan chức Việt
Nam Huỳnh Ngọc Sĩ, sau mấy tuần lễ, báo chí Việt Nam vẫn im như thóc
không dám đưa tin vì chưa có lệnh Tuyên huấn! Bạn đọc châm biếm hỏi:
“Phải chăng công khai sự thật tức là đi ra ngoài hành lang của ông Lê
Doãn Hợp?”
- Vụ khởi tố nữ phóng viên Lan Anh của báo Tuổi Trẻ là mở
đầu đánh vào nhà báo chống tiêu cực, đối tượng từ lâu được khuyến khích
và bảo vệ. Bị dư luận phản đối dữ dội, vụ án phải đình chỉ, phóng viên
Lan Anh thoát nạn. Năm 2008, vụ án khởi tố hằng loạt phóng viên của
nhiều tờ báo đưa tin về vụ tham nhũng ở PMU 18 với tội danh “làm lộ bí
mật nhà nước và lợi dụng quyền tự do dân chủ”.
- Cũng như Lan Anh, các nhà báo trong vụ án này đều là những người
trung thành với “lý tưởng làm báo cách mạng”, quyết lôi bọn tham nhũng
ra ánh sáng, làm trong sạch bộ máy Đảng và nhà nước. Nhà báo Nguyễn
Việt Chiến ra trước toà vẫn khăng khăng rằng mình không có tội mà chỉ
có quyết tâm chống tham nhũng. Các ban biên tập báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên
và nhiều đồng nghiệp của họ đã hăm hở viết bài bảo vệ họ. Việc làm đó
đã bị dập tắt ngay lập tức. Tất cả báo chí cả nước im phắc cùng một
ngày. Tiếp theo là án tù ngồi cho người không tự biết mình có tội
(Nguyễn Việt Chiến), tù treo cho người biết nhận tội (Nguyễn Văn Hải).
Tiếp theo nữa là tước quyền hành nghề của các phó tổng biên tập, tổng
biên tập của các báo Thanh Niên, báo Tuổi Trẻ, những
người đã viết bài hoặc duyệt bài bảo vệ những người bị bắt. Nhà báo
Uyên Vũ cho rằng vụ tước quyền hành nghề của bảy nhà báo một lúc có thể
so sánh với vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, chỉ có điều khác xưa là họ không
bị “đấu tố” và “ném đá” bởi các đồng nghiệp!
- Phó Tổng biên tập Bùi Thanh của Tuổi Trẻ, một nhà báo
đầy “lý tưởng cách mạng” bị cách chức trong vụ này đã ngơ ngác hỏi “Vì
sao?” (!), khi nhìn các đồng nghiệp tử tế và trong sáng của mình bị xe
cảnh sát đưa vào nhà giam. Ông lại tiếp tục ngây thơ khi viết trên
blog: “Đừng nản lòng, hãy vì những trang báo sống động ngày mai, vì bạn
đọc của mình!” Trong khi đó, trả lời câu hỏi “Liệu vụ án này có làm sa
sút ý chí chống tham nhũng của các nhà báo?” ông Đinh Thế Huynh uỷ viên
Trung ương Đảng, chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, kiêm Tổng Biên tập báo Nhân Dân trả lời tỉnh bơ: “Làm sao lại có thể sa sút được! Bởi vì chống tham nhũng là một kênh của báo chí cách mạng!”
Có hai nhận định đáng lưu ý về vụ này là:
- Nhà báo Huy Đức cho rằng vụ án cho thấy các nhà báo Việt Nam không có
nghiệp vụ báo chí để tiến hành điều tra độc lập mà chỉ dựa vào cơ quan
điều tra và bị ép buộc phải chấp nhận rằng đó là tư liệu hoàn toàn
chính xác. Vụ án cũng cho thấy tư pháp Việt Nam bất cập khi kết tội các
nhà báo viết bài bởi động cơ trong sáng không vụ lợi và tin chắc rằng
tư liệu mình có trong tay là sự thật.
- Ký giả Trần Tiến Dũng cho rằng vụ án này là “Dấu chấm hết của báo chí
lý tưởng”, bởi nó đã đánh vào những nhà báo tự nguyện làm công cụ của
Đảng để thực hiện lý tưởng cách mạng! Ngẫm ra nhận định này không phải
không có cơ sở. Thực tế cho thấy tham nhũng đã xâm nhập vào các cấp cao
nhất của guồng máy Đảng và Nhà nước khiến cho họ không có cách nào khác
là phải bẻ gãy những cây bút công cụ đang chĩa vào chính những ông chủ!
Năm 2008, báo chí Việt Nam vốn ngoan ngoãn với chức năng công cụ, đã bị
trừng phạt nặng nề: 6 cơ quan báo chí bị cảnh cáo, 252 trường hợp bị
khiển trách, 15 nhà báo bị thu thẻ hành nghề, trong đó có 2 Tổng Biên
tập, 4 phó Tổng Biên tập, 6 nhà báo bị khởi tố, 2 nhà báo vào tù.
Mới đây, nhà báo, văn nghệ sĩ lại bị trấn áp với tội danh mới, “tội yêu
nước”! Đó là vụ ông Nguyễn Trung Dân, phó Tổng Biên tập báo Du Lịch Việt Nam,
bị cách chức, thu thẻ nhà báo vì đăng tin bài chống Tàu cộng xâm chiếm
Hoàng Sa, Trường Sa. Một số nhà báo, văn nghệ sĩ bị bắt, bị thẩm vấn và
gây khó khăn trong cuộc sống vì đã tham gia biểu tình chống Tàu cộng
xâm chiếm đảo biển Tổ quốc. Đạo diễn Song Chi, một blogger có nhiều bài
viết mạnh mẽ đã phải rời đất nước xin tị nạn chính trị ở Na Uy, được
nước này tiếp nhận như là một guest writer (khách văn). Bà Song Chi cho biết sau khi bị bắt vì tội biểu tình chống Tàu cộng bà bị gây khó không thể làm việc được.
Đây quả là một bi kịch của báo chí cách mạng Việt Nam!
Mới đây nhà báo Nguyễn Chính trong bài viết “Báo và Blog và… Bầu trời” kể rằng 15 năm trước khi ông nói báo Nhân Dân là tờ báo mà nhân dân ít đọc nhất đã bị ông Đinh Thế Huynh, chủ tịch Hội đồng Khoa học báo Nhân Dân,
bực dọc vặn lại: “Nói thế là không được! Xin hỏi anh Nguyễn Chính, đó
là nhân dân nào?” Nay ông Huynh đã lên Tổng Biên tập và kiêm nhiệm
nhiều chức vụ quan trọng khác. Nhưng báo Nhân Dân thì vẫn giữ vững kỷ lục là tờ báo ít nhân dân mua nhất! Nhà báo Trương Duy Nhất cho rằng không chỉ báo Nhân Dân
không có người đọc mà nói chung ngày nay “Đọc báo giấy chán bỏ mẹ!” Bạn
đọc Việt Nam, nhất là số người có học, đang tìm đến các tờ báo mạng,
các blog.
“Đọc báo giấy chán bỏ mẹ!” Đó chính là hậu quả của cách
quản lý “hoàn toàn có tự do nếu đi đúng lề bên phải” của ông Lê Doãn
Hợp! Hậu quả đó được giảng viên Đại học Sư phạm kiêm nhà báo cấp trung
ương Hà Văn Thịnh miêu tả như sau: “Còn nếu quý vị có ai đó đã từng
viết báo sẽ biết là rất nhiều câu chữ người ta đọc qua điện thoại cho
tôi, và chúng phải có. Vấn đề là ‘lách’ như thế nào để rồi người đọc
hiểu đến đâu là câu chuyện quá dài… Nói là bồi bút thì cũng phải, không
sai đâu. Thế nhưng cần phải lật ngược vấn đề rằng có ai ăn lương hiện
nay mà không từng một lần làm bồi bút?”.
Chao ơi, có đau đớn không, khi chính sách của Đảng cầm quyền từng được
tung hô “quang vinh muôn năm” lại biến những người cầm bút của báo chí
cách mạng vốn được giao thiên chức “xung kích trên mặt trận văn hoá tư
tưởng” trở thành những tên bồi bút! Và càng đáng sợ hơn là người ta có
thể nói ra điều nhục nhã đó một cách xưng xưng không chút ngượng ngùng!
Vậy thì người đọc của dân tộc anh hùng này đang đi theo cái định hướng
đỏ để trở thành những tên… bồi gì đây?
Điều 19 của ICCPR?
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ thật là giản dị: “Dân chủ là người dân được mở miệng”.
Đó chính là tự do ngôn luận. Điều mà cách đây hơn 150 năm, ông Rober
Lowe, chính khách người Anh đã miêu tả cụ thể: “Chúng ta nhất định phải
nói lên sự thật, đúng như chúng ta thấy, không sợ mọi hậu quả, nhất
định không cung cấp chỗ ẩn náu thuận tiện cho những hành vi bất công
hay áp chế mà phải lập tức giao chúng cho sự phán xét của thế giới.”
Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam độc lập đã ghi nhận tinh
thần đó. Luật Báo chí hiện hành cũng có ghi nhận tuy không thật cụ thể:
“Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới”.
Vậy thì tại sao thực tế vận hành của báo chí Việt Nam lại không phải
như vậy? Tại sao cứ tiếp tục rập khuôn theo Lenin- thứ báo chí phản
thông tin của mà ngày nay chính đồng bào Nga của ông cũng kiên quyết từ
bỏ? Tại cuộc họp của Hội đồng Nhân quyền hồi tháng 5/2009 có hằng chục
đại diện các quốc gia đề nghị Việt Nam thực hiện một phần, hoặc phù
hợp, hoặc trùng khớp với Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị, như: Gia tăng sự độc lập của truyền thông, cho phép ra
báo tư nhân, dỡ bỏ hạn chế internet…, tất cả đều bị Việt Nam bác bỏ. Lạ
thay, Việt Nam là quốc gia đã ký cam kết..., khi gia nhập Công ước Quốc
tế này từ ngày 24 tháng 9 năm 1982! Tại sao vậy? Xin hãy đọc kỹ nội
dung điều 19 của Công ước này xem nó chứa đựng những gì nguy hiểm đến
nỗi các nhà lãnh đạo Việt Nam phải kiên quyết chối bỏ?
Điều 19
1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do
tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt
ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc
bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng
khác tùy theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những điều quy định tại khoản 2 của điều này kèm theo
những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn đến một số hạn
chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy định
và cần thiết để:
- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng. [7]
Bạn đọc Việt Nam có thấy Điều 19 có gì đáng sợ? Tôi thấy nó rất cao
quý, tin ở con người, tôn trọng con người và tạo điều kiện cho con
người đóng góp trí tuệ cho cuộc sống. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn
luôn hô hào tìm những biện pháp “đi trước đón đầu” trong các lĩnh vực
khoa học công nghệ, trong khi đó lại từ chối không chịu đi kịp những
vấn đề của dân chủ, nhân quyền, không chịu thực hiện tự do báo chí,
điều mà Thomas Jefferson đánh giá là “Công cụ tốt nhất cho việc mở mang
trí tuệ của con người, nâng con người lên trở thành có lý trí, phẩm
hạnh và mang tính xã hội”!
Khi tôi chép vừa xong điều 19 thì bạn tôi điện thoại cho hay, báo Dân Trí
vừa đưa tin: Sở Giáo dục Quảng Nam buộc thôi việc cô giáo dạy văn cấp 3
Nguyễn Thị Bích Hạnh, bởi vì cô đã chỉ cho học sinh cách tự học, tìm
tòi phân tích thông tin trên các trang web của talawas, Tiền Vệ. Như vậy là “quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức” ở điều 19 đã không được chấp nhận!
Có phải lý do chính là “không để tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng chi
phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước”?
Có lẽ toàn dân Việt Nam đều đồng ý với Bộ Chính trị là phải ngăn chặn
mọi hành vi “gây tổn hại lợi ích đất nước”.
Nhưng tại sao tất cả các quốc gia tiên tiến, hiện đại trên thế giới đều
thực hiện điều 19 ấy mà vẫn không bị “gây tổn hại lợi ích đất
|