. Đinh Tấn Lực
Bẵng đi từ bài "Về Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Xây Dựng Đất Nước Ta Hiện Nay”
(2005, ngay sau khi bác Đào sang thăm Việt Nam), lâu lắm rồi độc giả ở
đây mới được thưởng lãm một bài viết khác của bác Mười. Mà là một bài
lý luận công phu/uyên bác đến trên cả mức ngạc nhiên nữa, mới thú! Cho
dù phong thái dùng từ và chấm câu có một khoảng cách rất xa với bản
chất bình dị/xề xòa/mộc mạc hàng ngày của tác giả, vẫn thú! Cho dù tác
giả chủ ý nhắm vào đối tượng đảng viên trong mục tiêu Về Xây Dựng Đảng, càng thú!
*
Thú thật!
Thú
nhất là ở (chỗ mường tượng ra khung cảnh nếu đây là một bài đọc, thì
hẳn tác giả đã giơ tay nhẹ nhàng lẳng lơ vuốt mái tóc phớt chẻ đôi một
cách cực điệu nghệ, rồi hắng giọng thanh phá mà nhấn mạnh) cái khẳng
định ấn tượng (đến mức được nâng cấp thành tựa đề): "Không có Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không có công cuộc đổi mới”.
Thật khó mà tranh cãi với tác giả về những nỗ lực của đảng và nhà nước ta được liệt kê trong bài viết, tạm lược như sau:
"Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH chúng ta đã nhận thức sâu sắc rằng, xây dựng
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm… Kiên quyết và liên tục thay thế cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp bằng cơ chế thị trường… Đẩy mạnh
sản xuất, trước hết phải xây dựng và phát triển nền công nghiệp tư liệu
sản xuất, đặc biệt cơ khí chế tạo, sau nữa coi trọng công nghệ thông
tin, điện tử, năng lượng mới, vật liệu mới, hóa chất và kể cả công
nghiệp tiêu dùng…”.
Cũng quả là cực khó cho những ai muốn quên những giai thoại hào hứng đến đứt ruột về tác giả, trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH
của đất nước, qua bao đoạn đời thăng trầm cá nhân, từ thời bác được chú
ruột của nguyên GS Bộ trưởng Phạm Minh Hạc kết nạp vào chi bộ Đông Phù
năm 1939, bị Tây bắt giam (1941), vượt ngục (1943), rồi tham gia cướp
chính quyền ở Hà Đông (1945) và lần lượt giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hà
Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng (1945-1955, nổi tiếng về
cuộc đại càn quét "gián điệp” năm 1955 ở Hải Phòng cùng với câu danh
ngôn để đời: Thà giết lầm hơn bỏ sót!)… Sau đó, lên tới Thứ
trưởng (1956) rồi Bộ trưởng bộ Nội Thương (1958), vào TW đảng (1960),
Chủ nhiệm ủy ban vật giá Nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra của Chính
phủ (1961-1969), leo lên Phó Thủ tướng Chủ nhiệm Văn phòng kinh tế Phủ
Thủ tướng (1969-1971), Phó Thủ tướng Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản
(1971-1973). Lại tụt xuống Bộ trưởng Bộ Xây dựng (1973-1977) kiêm nhiệm
đại biểu Quốc hội khóa V và VI, được bổ sung vào dự khuyết Bộ Chính
trị, tái thăng chức Phó Thủ tướng Chính phủ (1976-1981) kiêm nhiệm đại
biểu Quốc hội khoá VII, biến thành Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước
CHXHCNVN (1981), chính thức vào Bộ Chính trị (1982), Thường trực Ban Bí
thư TW đảng (1986) kiêm nhiệm đại biểu Quốc hội khoá VIII, thăng chức
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1988), rồi trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp
hành TW Đảng (1991), đến nửa nhiệm kỳ sau thì được suy tôn làm Cố vấn
Ban Chấp hành TW Đảng, tới năm 2000 thì được thăng ngạch lên quy chế
Nguyên Cố vấn.
Nói chung là gần trọn cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của bác Mười lọt thỏm vào cái "đêm trước đổi mới”.
Còn
cao điểm của sự nghiệp đó (1991) thì đã "lạt mềm buộc chặt” với cái cột
mốc nối lại mối quan hệ hữu nghị vương hầu/răng môi/4 tương/4 tốt được
gia công mông má thành 16 chữ vàng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bác
thích mặc áo đại cán đi khắp nơi là do bởi sự "trùng hợp lịch sử” này
nó vận vào người chăng?
*
Thú thật!
Bởi bác Mười cứ tưởng đã có đâu đó khá đông những độc giả trẻ của bài viết "Không có Ðảng CSVN…” này,
xưa giờ không thể có nhiều điều kiện/cơ hội nghiệm lại những đoạn sử
hãi hùng cận đại được chép bằng máu và nước mắt của nhân dân, nên chẳng
thể mường tượng ra cái đêm trước đổi mới ấy ra sao mà tác giả có dự
phần hay toàn phần quyết định, bao gồm:
- Các
chủ trương lớn Cải Cách Ruộng Đất, đại thanh trừng Xét Lại, trù dập
Nhân Văn Giai Phẩm, tắm máu nhân dân Quỳnh Lưu-Phát Diệm… thời bác Mười
làm Bí thư tỉnh ủy nhiều tỉnh thành;
- Các
chính sách độc quyền thông tin, bưng bít/bẻ cong sự thật, giáo dục/đào
tạo "con người mới XHCN” (nửa Hàn Tín, nửa Chí Phèo), kinh tế nô lệ ký
sinh vào quốc tế cộng sản, đối ngoại là đi bằng đầu gối, đối nội là nửa
đêm gõ cửa, cơ chế xin-cho, tem phiếu-hộ khẩu, hợp tác hóa nông nghiệp,
cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp tư doanh, ngăn sông cấm chợ,
huy động lương thực, xuất khẩu lao nô… làm kiệt sức dân, đặc biệt là
nghị quyết số 49/NQ/TVQH (20/6/1961) cho phép nhà nước bắt giam mọi
công dân mà không cần xét xử… thời bác Mười vào TW đảng, cụ thể là lúc
nắm chức Chủ nhiệm ủy ban vật giá Nhà nước và Trưởng phái đoàn thanh
tra của Chính phủ;
- Các
đòn trả thù "ngụy quân, ngụy quyền” bằng tù cải tạo, đày thân nhân họ
đi kinh tế mới, tận diệt tư sản X1-X2, thu vàng bán bãi sau năm 1975…
thời bác Mười vào dự khuyết BCT và làm PTT chính phủ, mang hết kinh
nghiệm máu lửa của thời làm Bộ trưởng Nội thương vào thanh lý miền Nam;
- Lệnh tiến hành chiến
tranh xương máu với Campuchia, nhận lại bài học máu xương "giáo trừng”
của TQ, chỉ vài năm sau khi cuộc chiến ủy nhiệm quốc-cộng vừa kết thúc,
khiến cả thế giới cấm vận 10 năm, làm đứt hơi dân tộc với tổng cộng
nhiều triệu người hy sinh qua 3 cuộc chiến… vào thời bác Mười bắt được
trớn thăng hoa sự nghiệp.
Nhung
nhớ bác Mười nhiều nhất là hàng chục vạn gia đình có người tự tử vì tán
gia bại sản trong suốt chiều dài dằng dặc của cái đêm trước đổi mới
kinh hoàng, mà nếu không có đảng CSVN "càng sửa càng sai” đó, thì nhân
dân cả nước của cái "vựa lúa Đông Nam Á” này đã chẳng bị phân loại
thành thiếu đói, đói, và đói gay gắt (năm 1985 chính phủ VN đã phải
thống thiết kêu gọi thế giới cứu đói – cho đến tháng 6-2003 bản phúc
trình của Ngân Hàng Thế Giới công bố: 29% dân số Việt Nam vẫn sống dưới
mức nghèo đói).
Rõ ràng:
Khẩu hiệu "Đổi mới hay là chết” không chỉ là phụ phẩm từ ý niệm
"perestroika” của Liên Xô cũ thời đó, hay vì đảng ta bất ngờ bị mất cả
kinh viện lẫn quân viện từ quốc tế III. Nó càng không phải là vì nhân
dân. Nó là một biện pháp tình thế, không còn lựa chọn nào khác, để giữ
đảng tồn tại, và tự thân, nó là một phản ánh trung thực và hoành tráng
nhất của cái tình thế "tận cùng bằng số” do đảng gây ra trên đất nước
này trong gần 2/3 của thế kỷ 20. Những bài viết ca tụng đổi mới loại
này chỉ có tác dụng duy nhất là nhắc nhớ cho nhân dân Việt Nam luôn ôn
tập lại trong đầu về những thảm họa đen đã phải và sẽ còn gánh chịu
ngày nào còn đó đảng CSVN.
*
Thú thật!
Bởi bác Mười cứ tưởng vẫn có đâu đó khá nhiều độc giả của bài viết "Không có Ðảng CSVN…” này chưa có dịp nghe nói đến thảm kịch của những người tiên phong xé rào đổi mới trước đảng:
- Bí
thư Kim Ngọc của tỉnh Vĩnh Phú, một trong những tác giả của chủ trương
khoán ruộng, đã từng bị TW đảng khai trừ/trù dập đến chết;
- Nông
dân miền Nam, bị bóp nghẹt kinh tế, đã xé rào, tự nâng giá thóc, khoán
cả nhiên liệu và thiết bị trong ngành xay thóc lẫn vận chuyển, đã tự
động dẹp bỏ hệ thống hợp tác xã nông nghiệp… và đối diện với biết bao
còng sắt, ngày tù, trước khi đưa cả nước lên hàng thứ ba thế giới về
mức xuất khẩu gạo bấy giờ.
Người
ta chưa quên một giai thoại khác: Lúc được nghe tham luận về việc cho
phép tư nhân làm kinh tế, thì bác Mười nhà ta ngưng phe phẩy cây quạt
cầm tay, trổi cao giọng hàng thịt, quát ngay: "Thế thì giết chết tươi chủ nghĩa xã hội à?”.
Còn
lúc gặp nguyên Chủ tịch UBND Hải Phòng Nguyễn Dần trình bày về sáng
kiến dẹp bỏ hệ thống tem phiếu, bác Mười đã lớn tiếng răn đe: "Bỏ tem phiếu là có tội!”.
Rõ
ràng: Chỉ thị 100CT (13/1/1981) chính thức hóa tiến trình khoán sản
phẩm trong nông nghiệp tự phát của nhân dân chính là để giành công cho
đảng (vốn đã bó tay), ngay trước lúc bác Mười chính thức vào BCT. Đảng
chiếm công đổi mới để giữ quyền thống trị bằng hệ thống độc tài độc
đảng. Cựu thư ký riêng của bác Mười là ông Đoàn Duy Thành từng có một
nhận xét chính xác để đời: "Anh Mười là một con người tráo trở đến thế
là cùng!”.
*
Thú thật!
Bởi bác Mười cứ tưởng lại còn có đâu đó khá nhiều độc giả của bài viết "Không có Ðảng CSVN…” này
khó lòng hình dung ra nổi cái kết quả vĩ đại (mà theo tác giả là rất
đáng tự hào) của công cuộc đổi mới hoành tráng của đảng và nhà nước ta
tới đâu:
- Sau 25 năm
đổi mới và gần cuối thập kỷ đầu của thế kỷ 21, VN ta đã gần chạm ngưỡng
chế tạo được toàn bộ chiếc xe đạp và 40% chiếc xe máy.
- Đất
nước ta lấp lánh thay da đổi thịt từ ruộng đồng phì nhiêu biến thành
sân golf, từ bãi tắm thiên nhiên biến thành resorts, từ quán cóc biến
thành hàng hàng lớp lớp vũ trường với khách sạn từ cấp mini cho tới 4-5
sao. Các khu "giải trí và hoạt động đêm” luôn thuộc diện ưu tiên xây
dựng.
- Hiện nay, thanh
niên nam nữ Việt Nam trở thành lao công/ôsin cho nhân dân nhiều nước,
qua tận Trung Đông ngập cát hay Samoa ngập sóng, còn công nghiệp cả
nước thì nhanh chóng tiến lên trình độ gia công/phục vụ cho thế giới
thu lợi nhuận.
- Thiếu nữ
Việt Nam trở thành món hàng mua bán cho các nước láng giềng, thậm chí,
được chính mồm bác Triết quảng cáo mồi chài doanh nhân Mỹ. Thống kê
(chưa đầy đủ của chính phủ Việt Nam) hồi tháng 6/2008: Có 21.038 phụ nữ
và trẻ em bị bán ra nước ngoài (2% là trẻ em trai dưới 10 tuổi) và
177.000 phụ nữ lấy chồng nước ngoài. Tỷ lệ khám nghiệm thanh niên
nhiễm HIV trước khi thi hành nghĩa vụ quân sự trung bình là 35/1000,
đạt kỷ lục là 10%, ở huyện Đô Lương, Bắc Ninh.
- Về
mặt tinh thần thì nhân dân ta ngày nay thuộc sử Tàu hơn sử Việt, nhờ
vào tiến trình đổi mới của xấp xỉ 70 đài truyền hình trên toàn quốc.
- Hệ
thống báo chí/truyền thanh/truyền hình chính quy của ta đã chứng tỏ
rành mạch rằng nói láo là một phong cách sống nghiêm túc đến mức trở
thành truyền thống. Trong đó, những ai dám nói thật đều trở thành nạn
nhân của chủ trương "thông tin liều lượng” và "bảo vệ bí mật quốc gia”
(Kim Hạnh, Nguyễn Hoàng Linh, Nguyễn Hoàng Thu, Hoàng Thiên Nga, Nguyễn
Việt Chiến…).
- Hệ thống
luật pháp của ta đã thành công vượt bực về nỗ lực "biến mỗi công dân
thành một người tù dự khuyết” (theo Vũ Thư Hiên). Nhà tù của ta từng
bước được tăng cường thông thoáng nhiều nơi. Mỗi năm ta thường có thông
báo đặc xá khoảng nửa vạn tù nhân.
- Hệ
thống giáo dục của ta (từng nổi tiếng thời trước đổi mới là dắt một con
bò sang Nga thì có thể dắt về một tiến sĩ) hiện đã biến thành những
siêu thị bán phao cho tới bán bằng. Dù vậy, vẫn có gần 87% thí sinh
không đủ điểm trung bình 5 trong kỳ thi tốt nghiệp (2003).
- Về
y tế: Các bệnh viện chuyên khoa như ung thư, chấn thương chỉnh hình,
nhi khoa… bị quá tải vượt quá 150% công suất. Bản thống kê của nhà nước
(8/2003) công bố VN có 850 bác sĩ chuyên khoa trị liệu cho trên 10
triệu người mắc bệnh tâm thần (tỷ lệ điên loạn cao nhất, còn tỷ lệ bác
sĩ thấp nhất thế giới).
- Thống
kê 2008 công bố tiền nợ của Việt Nam lên đến hơn 28 tỷ USD. Con số này
còn tăng vọt cao hơn trong năm khủng hoảng 2009 và chắc chắn sẽ làm
còng lưng những thế hệ người Việt sau này.
- Khi
gia nhập vào WTO, Việt Nam ta phải chờ Campuchia ký thuận. Xứ Chùa Tháp
này đã theo thể chế chính trị đa đảng và có báo riêng của từng đảng. Ta
vẫn chưa theo kịp.
- Thống
kê của Asian Culture -1960 : Lợi tức bình quân tính bằng USD/người/năm:
Nhật 245, Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam VN) 141, Đài Loan 121, Thái Lan
64.2, Ấn Độ 55. Singapore bấy giờ còn thuộc về Malaysia, chưa đáng kể.
Còn theo tài liệu của World Bank – 2007: Lợi tức bình quân
USD/người/năm của Singapore là 35.000, Thái Lan là 3.850, VN ta là 760.
Nghĩa là ta vừa tăng trưởng lại vừa tụt hậu. IL Houng Lee, Trưởng Đại
diện Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF tại Việt Nam nhận định: "VN có thể mất 18
năm để đuổi kịp Indonesia, 34 năm với Thái Lan và 197 năm với
Singapore ” (báo Tiền Phong 3/2006), với điều kiện các nước đó dậm chân
tại chỗ.
Phải chăng
đó cũng là nguyên do xuất hiện câu thành ngữ dân gian trong những năm
80: "Mặt Thanh Hoa, da Ái Vân, chân Hồ Kiểng, trán Đỗ Mười”?
Rõ
ràng: Tiến trình đổi mới của đảng và nhà nước VN là một chuỗi sửa sai
liên tu bất tận, càng sửa càng sai, bởi cốt lõi chủ nghĩa xã hội và cơ
chế tập quyền này đã gây ra thảm họa từ đầu và liên tục nuôi dưỡng
những kẻ gây ra những thảm họa kế tiếp để làm giàu.
*
Thú thật!
Ở
nửa cuối bài viết, tác giả cố tập trung vào những trọng điểm về xây
dựng đảng. Đại loại cũng chỉ là những điều than phiền từng được lặp đi
lặp lại nhiều lần trong mọi hội nghị đảng bộ về một khối nhân sự thiểu
trí thừa tham ở mọi cấp đảng mà ai cũng biết nhưng khó đụng tới vì nó
thuộc diện "bí mật quốc gia”:
- Bác Phiêu, người lật đổ và kế tục bác Mười giữa nhiệm kỳ từng phán: "Đảng
đã biết cái bệnh đó rồi thì phải giải quyết đi chứ. Cũng có thực tế là
anh chẳng dám đấu tranh với ai cả nhưng anh lại bè phái hại nhau: đơn
thư tố cáo nhau, nói xấu nhau, dựng chuyện hại nhau… Tình trạng đó là
tương đối phổ biến chứ không phải cá biệt. Và đôi lúc cũng có việc các
đồng chí trung ương đảng kiểm điểm lại thì thấy chặn chỗ này lại bục
chỗ kia, có cái càng bục lớn hơn”.
- Cụ
thể là các vụ liên tục "phá án” Năm Cam, Hang Dơi, Thủy Cung Thăng
Long… mấy năm trước, đều là hệ quả "chập mạch” của các đường dây tham
nhũng ở cấp trung ương.
- Phóng viên Ben Rowse của hãng thông tấn AFP đã từng có một nhận định không thể nào chính xác hơn được nữa: "Bất cứ quan chức nào tại Việt Nam cũng đều có thể bị đưa ra tòa về tội tham nhũng”.
Vậy là cả thế giới đều hiểu giới tư bản đỏ VN từ đâu chui ra. Còn lời
bình mẫu mực nhất là của tướng CA Lê Thế Tiệm về nạn tham nhũng xuyên
suốt đó: "Tình trạng đang rất phức tạp và khó giải quyết”. Vì sao?
- Ngay
cả bác Triết là đương kim Chủ tịch nước cũng từng hồn nhiên phán rằng:
"Làm người ai mà chẳng tham?”. Đã tham mà còn có quyền tuyên bố "Đảng
là tao” nữa thì hỏi sao chẳng phức tạp và khó giải quyết?
- Chính
bản thân bác Mười cũng đã tư túi nhiều triệu USD trong chuyến công du
Nam Hàn, và chuyện chỉ ló ra ánh sáng công luận sau khi bác nôn ra một
ít để làm từ thiện. Cũng chính bác Mười là tác giả một câu danh ngôn ấn
tượng khác: "Nếu đã no thì đừng xơi thêm!”.
- Còn
Nguyễn Văn Thuận, nguyên Bí thư thành ủy Hải Phòng, con nuôi của bác
Mười, cũng đã từng tốn nửa triệu USD để chạy án vụ tham nhũng sân bay
Cát Bi. Nghe đâu còn tốn thêm nhiều triệu khác để chạy ghế TW.
Chuyện
thật 1: Riêng trong năm 2003, hệ thống ăn chia trong ngành Tư Pháp đã
tiếp tay cho 17.100 kẻ phạm pháp đào thoát, trong đó có cả 7 trường hợp
được cấp giấy xuất cảnh ra ngoại quốc.
Chuyện
thật 2: Có một huấn luyện viên bóng đá nọ (tạm dấu tên), khi bị buộc
tội hối lộ cho trọng tài trận đấu, đã chân thành trần tình: "Tui hối lộ
như thế không phải để cho trọng tài bênh đội mình, mà là chỉ muốn trọng
tài công bằng thôi!”. Bởi nếu không thì tiền hối lộ phía bên kia sẽ
giúp họ chiếm thượng phong?
Rõ
ràng: Lãnh đạo ta, cả cựu lẫn kim, cả nguyên chức lẫn tại chức, đều có
khiếu hài hước cực nghiêm túc trong các hội nghị hay các bài xã luận.
Khoa học ngày nay vẫn chưa thể kết luận được, ngày nào y khoa thế giới
chưa tìm ra được cách dò dây thần kinh xấu hổ. Bác Mười này không là
người duy nhất, hôm nay và cả ngày mai. Sẽ không một ai ngạc nhiên khi
thấy còn nhiều bác Mười khác có cùng một loại tuyên bố hùng hồn như tựa
bài viết nói trên, cho đến ngày nhân dân ta cùng xuống đường giơ cao
nắm tay bảo nhau rằng họ "hết thời rồi!”.
*
Thú thật!
Trong hồi ký của ông Đoàn Duy Thành có một đoạn đáng ngẫm:
Anh
Nguyễn Văn Linh đã nói nhiều lần ở Hội nghị Trung ương: "Tôi có được
chuẩn bị làm Tổng Bí thư đâu”, và lúc cần quá, phải đi tìm người, anh
Linh ví: "Chẳng khác gì cầm bó đóm đi tìm ếch, tìm không được ếch, lại
bắt được nhái”.
Còn nhân dân ở Thủ Đô ta đã có một thời sôi máu khi nghe truyền tai một giai thoại của bác Mười cũng đáng ngẫm không kém:
Trong
thời chiến tranh, trường CNKT1 ở Hà Nội được sơ tán về Lạng Giang. Đến
sau 1975, vị Hiệu trưởng trường này lặn lội về thủ đô để kiến nghị với
Phó thủ tướng cho trường được dời về lại nguyên quán. Bác Mười rất hồn
nhiên mà phán rằng: "Ở Lạng Giang rộng rãi thông thoáng không muốn, muốn về Hà Nội để ăn cứt à?”.
Trong
ý nghĩa đó, bài viết công phu/uyên bác nói trên, nếu do chính tay bác
viết, thì đó là một khẳng định chắc nịch rằng bác Mười muốn giành độc
quyền ở Hà Nội, và bác đã từng ở đó từ bấy tới nay.
Còn,
thảng hoặc, nếu vì bác quá bận đời tư (đến mức có cả con mọn ở tuổi
91), và đó là bài của người khác viết cho bác ký tên, nhân dịp bác mừng
sinh nhật 93, cộng thêm vinh dự được trao tặng huy chương 70 tuổi đảng,
thì quả đúng hắn là một tay cực đểu: Muốn dâng lên bác cái độc quyền ở
Hà Nội.
Thú thật!
14-3-2010, kỷ niệm 22 năm hy sinh không ngày giỗ của những liệt sĩ ở Trường Sa
Blogger Đinh Tấn Lực