Một nhà văn hoá Âu châu từng nói rằng lịch sử chỉ là một chuỗi câu
chuyện về gia đình và thế giới. Bởi thế, kể chuyện là một phương tiện có
hiệu lực cao để giải thích những gì đã và đang xảy ra. Có thể khẳng
định ngay rằng bộ sách Bên thắng cuộc của Huy Đức không phải là sách lịch sử. Huy Đức cũng nói rằng anh không viết sử. Tôi xem Bên thắng cuộc là
một chuỗi câu chuyện hậu trường chính trị Việt Nam. Tất cả chúng ta cần
phải biết những câu chuyện mà Huy Đức kể lại, bởi vì những câu chuyện
đó sẽ thấp lên một que diêm trong cái lịch sử mờ ảo của Việt Nam vào
những năm giữa thế kỷ 20 cho đến ngày hôm nay.
Đọc phần I của tập sách tôi như xem một cuốn phim quay chậm. Những kẻ
một sớm chiều biến thành "Cách mạng 30/4”. Đốt sách. Cạo râu, cắt ống
quần. Cải tạo. Kinh tế mới. Đánh "tư sản mại bản”. Đổi tiền. Vượt biên.
Tất cả những biến cố đó là sự thật. Là người ở lại trong khi các đồng
nghiệp tìm được vượt biên tôi có thể nói rằng tất cả những gì Huy Đức
ghi chép đều đúng. Huy Đức không phải là người đầu tiên ghi lại những
biến cố đau thương sau 1975. Trước Huy Đức đã có cụ Nguyễn Hiến Lê viết
lại cẩn thận những sự kiện và biến cố làm cho miền Nam suy sụp sau ngày
"giải phóng” trong tập Hồi Ký nổi tiếng nhưng bị nhà xuất bản cắt xén
khá nhiều. Chúng ta thử đọc vài trích đoạn trong Hồi Ký của cụ Nguyễn
Hiến Lê trước khi đọc sách của Huy Đức.
Kẻ "thắng trận” muốn biến miền Nam nghèo như miền Bắc:
"Sự thất bại hiển nhiên của chế độ là sự suy sụp của kinh tế như
tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt nam trước thế chiến tự
hào là "tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở
miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ở miền Bắc mà bây giờ
thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.
Nhưng một người Balan trong Ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo
chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ "đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như
miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều
bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quầ áo… về giúp bà con ở
đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi”.
Trong cùng lúc ra tay hành hạ dân miền Nam:
"Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn
liếng, về Sài gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống
rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt
rỉ, một quai dép mủ… để bán cho "ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông
được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu
thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá”.
Trong khi đó bản thân những kẻ "thắng cuộc” thì ăn hối lộ và tham nhũng:
"Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng cấu kết với nhau
thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén
lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một thành phố lớn thì bao
nhiêu tiền, một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao nhiêu. Muốn mua
một vé máy bay, vé xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân công nhân
viên, phải nộp bao nhiêu… Cái tệ đó còn lớn hơn thời trước”.
Họ tạo nên một xã hội trong đó con người mất nhân phẩm:
"Một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24. Trong một
buổi hội họp của Hội trí thức thành phố Hồ Chí Minh, một kĩ sư già bực
mình vì tình trạng cán bộ đa số dốt nát, bảo: "Tôi chấp nhận vô sản
chuyên chính, mà không chấp nhận vô học chuyên chính”. Ngay chiều hôm đó
ông ta bị bắt giam; sau cũng được thả ra”.
"Sống dưới chế độ cộng sản, con người hóa ra có hai mặt như
Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải
đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người
trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng
ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm
việc điểm chỉ đó mà bạn trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó
lại bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những
năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này
không chịu làm thứ mật thám chìm đó”.
Tình trạng phân chia Nam Bắc càng nặng:
"Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân.
Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang
ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện
chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng
sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng
bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội
nghị ở Sài gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão
thành miền Bắc, ông Ðào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có
nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu
đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất
nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.
Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ
nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc
rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có
thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc”.
bởi vì một trong những nguyên nhân là:
"Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực
dân da trắng đối với dân "bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm
nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được.
Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng
câu: "Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói
nữa.
Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng
chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó,
chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật -điều này không có gì đáng chê, vì
chiến tranh, họ không được học- thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói
xấu lẫn nhau, chài bẫy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng
khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn
kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của
một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè,
hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II
đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…”.
Nhưng cụ Nguyễn Hiến Lê ghi chép thời cuộc, tình hình chung, còn Huy
Đức thì cung cấp cho chúng ta những câu chuyện hậu trường, những suy
nghĩ cá nhân của những người nặn ra những chính sách ác ôn dẫn đến tình
hình mà cụ Nguyễn Hiến Lê nhận xét. Có thể nói rằng cuốn sách của Huy
Đức là một bổ sung quý báu cho hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Bây giờ chúng ta thử đọc xem Huy Đức đã cho chúng ta chứng từ để giải
thích cho những nhận xét của cụ Nguyễn Hiến Lê. Đọc xong bộ sách tôi
thấy những thông điệp sau đây lắng đọng trong tôi:
1.- Đó là một chế độ độc tài và toàn trị. Người cộng sản nói rằng chế độ do họ dựng lên là dân chủ tập trung.Nhưng
trong thực tế chúng ta thấy rằng chẳng có gì là dân chủ trong chế độ
cộng sản. Tất cả các chính sách đều do một nhóm người trong Bộ chính trị
quyết định. Nhưng qua Bên thắng cuộc, chúng ta còn biết rằng
rất nhiều chính sách có ảnh hưởng đến hàng triệu người chỉ do một người
quyết định, bất chấp những lời khuyên của người khác. Điển hình cho tính
độc tài là quyết định mở cuộc tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Rõ ràng,
đó là một chế độ độc tài, sao gọi là dân chủ tập trung được.
Điều mỉa mai nhất là họ cáo buộc rằng chế độ VNCH là do Mỹ dựng lên
và tay sai của Mỹ, nhưng chính người lãnh đạo cao cấp nhất trong chế độ
CS là Lê Duẩn khẳng định rằng họ đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho
Trung Cộng. Hình như chưa một lãnh đạo miền Nam chưa ai trơ tráo nói
rằng họ là tay sai của Mỹ. Nói cách khác, chế độ CS ngoài Bắc thời đó là
một chế độ toàn trị tay sai của ngoại bang.
Tính toàn trị còn thể hiện qua việc Bộ chính trị kiểm soát cả hành vi
xã giao của các đồng chí họ. Đọc đoạn Huy Đức tả cái bắt tay hờ hững
của cựu thủ tướng Phan Văn Khải với ông Bill Clinton mà buồn cười về sự
trẻ con và thiếu văn hoá của lãnh đạo CS. Ông Khải không mở miệng cười
với Bill Clinton. Khi được hỏi tại sao lại có hành vi kém xã giao như
vậy, ông Khải thú nhận: "Không được đâu mày ơi, Bộ chính trị đã thống nhất là không được cười”.
Đoạn viết về một ông tướng công an "làm việc” với ban giám hiệu Đại học
Quốc gia Hà Nội để chỉ đạo lúc nào nên cười, lúc nào nên vỗ tay, thậm
chí những hành vi xem thường ông Bill Clinton như để cho sinh viên đọc
báo trong lúc ông nói. Tất cả những hành động và sự giật dây đó là những
minh chứng hùng hồn cho thấy chế độ toàn trị kiểm soát tất cả hành vi
sống của người dân.
2.- Nội bộ thiếu đoàn kết. Thoạt đầu, ấn tượng của tôi về các vị lãnh đạo phe CSVN là họ rất đoàn kết với nhau. Nhưng đọc qua Bên thắng cuộc và
kinh nghiệm cá nhân, tôi mới thấy ấn tượng đó rất sai lầm. Người CSVN,
đặc biệt là trong giới lãnh đạo thượng tần, rất ganh ghét và đố kỵ lẫn
nhau. Huy Đức qua những câu chuyện cá nhânphác hoạ một bức tranh rất xấu
về Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, hai người không ưa tướng Võ Nguyên Giáp. Từ
một tướng vang danh thế giới bị hạ xuống người đi đặt vòng ngừa thai cho
phụ nữ! Những ganh ghét và đố kỵ rất con người cũng giống như các lãnh
đạo thuộc phe VNCH. Nhưng có cái khác biệt căn bản là các lãnh đạo VNCH
hành xử có văn hoá hơn và có phần tế nhị hơn so với các lãnh đạo phe CS.
Họ sẵn sàng dựng nên những câu chuyện để bôi xấu lẫn nhau. Vụ án "Năm
Châu – Sáu Sứ” được Huy Đức mô tả khá rõ và cho thấy các đồng chí
thượng tầng CS có thể lập mưu mô để hạ bệ những ai họ không ưa thích. Họ
còn dám dùng cả những thủ đoạn thấp như photoshop để nguỵ tạo hình ảnh
trai gái để tố cáo ông Lê Khả Phiêu lúc đó là tổng bí thư đảng.
3.- Tàn nhẫn. Sự hành xử của một số lãnh
đạo CS cấp cao có thể nói là tàn nhẫn. Sự tàn nhẫn thể hiện ngay giữa
các đồng chí. Chúng ta thử đọc qua đoạn mô tả Võ Chí Công, Đoàn Khuê và
Nguyễn Đức Tâm trả thù Võ Viết Thanh sau khi tướng Thanh bắt Năm Châu và
Sáu Sứ:
"Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí
Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang
chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn:
‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung.
Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí
là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng
rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai
việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo
của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của
cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy,
chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương
khóa VII’.”
Ông Võ Viết Thanh phản ứng như ssau:
"Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi
không còn kiềm chế được. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi
đã định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng,
tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức
giận.”
4.- Lừa gạt và dối trá. Người dân đã bị bộ
máy tuyên truyền của chế độ định hướng suy nghĩ và cảm nhận. Những trẻ
em mới lớn lên đã bị bộ máy tuyên truyền nhồi nhét rằng các vị lãnh đạo
đáng kính suốt đời hy sinh hạnh phúc cá nhân để đấu tranh cho bình đẳng
xã hội. Họ còn bị nhồi nhét rằng chế độ VNCH là chế độ ác ôn, với những
con người ăn trên ngồi trốc, trong khi phần lớn người lao động phải sống
khổ cực. Nhưng Bên thắng cuộclột trần "huyền thoại” cao cả của
các lãnh đạo CS. Sự thật nói lên rằng họ chính là những người ăn trên
ngồi trốc. Trong khi người dân không đủ cơm ăn thì họ phè phỡn với bơ
sữa từ Đông Âu. Họ có những vườn rau riêng. Họ có một đội quân bác sĩ
chăm sóc sức khoẻ dưới danh xưng "Ban bảo vệ sức khoẻ trung ương”. Người
dân không có thuốc điều trị nhưng lãnh đạo CS thì có thừa. Nếu lấy cái
nền lãnh đạo VNCH có đặc quyền đặc lợi là 1 thì những người lãnh đạo CS
có đặc quyền đặc lợi phải lên đến 100. Do đó, tất cả những gì người CS
phỉ báng giới lãnh đạo VNCH thì cũng chính là những gì họ phỉ báng chính
họ với cường độ cao hơn 100 lần. Một cách ngửa mặt lên trời phun nước
bọt.
5.- Đạo đức giả. Báo chí miền Bắc thường ra
rả tuyên truyền rằng lãnh đạo VNCH là những kẻ ăn chơi, đa thê đa
thiếp, chỉ biết suốt ngày nhảy đầm chứ chẳng có kiến thức chính trị gì
cả. Họ còn viết hẳn một cuốn sách về các tướng lãnh VNCH. Đọc cuốn này
cũng là một phương thức giải trí tốt vì các tác giả có khả năng tưởng
tượng khá tốt. Nhưng còn các lãnh đạo CS thì sao? Họ là những kẻ nhiều
vợ. Lê Duẩn. Nguyễn Văn Linh. Lê Đức Thọ. Võ Văn Kiệt. Có thể cả ông Hồ.
Tất cả đều có hơn 1 vợ. Tất cả đều sẵn sàng bỏ vợ lại sau lưng để "theo
đuổi sự nghiệp cách mạng”. Nhưng cũng có thể họ xem phụ nữ như là những
người để họ giải quyết vấn đề tình cảm sinh lý. Không phải ai trong
giới lãnh đạo CS đều sống vô đạo đức, nhưng nhìn qua những nhân vật cao
cấp chúng ta thấy nói rằng thói đạo đức giả rất phổ biến trong giới
thượng tầng của chế độ.
6.- Dốt nát. Chúng ta biết rằng những người
cộng sản thế hệ thứ nhất như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp (không tính đến những người như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn
Cừ) là những người có trình độ học vấn khá và có bản lãnh. Nhưng Bên thắng cuộc tiết
lộ rằng những người thuộc thế hệ đàn em của những người tiền phong toàn
là một nhóm người ít học. Những lãnh đạo như ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh,
Nguyễn Văn Linh … đều xuất thân từ thành phần không có cơ hội học hành
đến nơi đến chốn. Sự dốt của lãnh tụ có khi đến mức hài hước. Trong phần
viết về sức khoẻ lãnh đạo, chúng ta được biết ông Đỗ Mười nói về bệnh
trạng của tướng Đoàn Khuê, qua lời thuật của ông Nguyễn Văn An, như sau:
"Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi mà. Đoàn Khuê
còn vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo: thưa anh, theo chuyên môn thì đấy là
khối u nó chạy chứ không phải tan đâu ạ”. Thật kinh hoàng khi những con người như thể được đặt ở vị trí chót vót lãnh đạo một đất nước 90 triệu dân!
Qua Bên thắng cuộc chúng ta biết rằng các lãnh đạo CS có tầm
nhìn rất hạn hẹp. Có thể do bị nhào nặn bởi tuyên truyền cộng với kém
học thức nên các lãnh đạo CS có kiến thức rất nghèo nàn về thế giới
ngoài các nước XHCN và Trung Cộng. Từ đó dẫn đến những nhận định sai lầm
và những lựa chọn bất lợi cho đất nước. Điển hình là câu chuyện đằng
sau việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Câu chuyện cho thấy giới
lãnh đạo CS thiển cận và làng xã trong những nhận xét của họ về một đối
thủ rất quan trọng.
Chúng ta thử đọc một đoạn "Cứu chủ nghĩa xã hội” để thấy ông Nguyễn
Văn Linh có tầm nhìn và hành xử đầy kịch tính ra sao. Đọc cũng để thấy
Gorbachev chẳng những mỉa mai mà còn khinh Nguyễn Văn Linh như thế nào:
Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh:
Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự lễ kỷ
niệm bốn mươi năm ngày thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Theo ông Lê
Đăng Doanh: "Quyết địng đi dự 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức là quyết định
trực tiếp của cá nhân anh Linh. Anh Linh đã bàn với Bộ Chính trị về việc
phải triệu tập một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để
cứu phong trào cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Anh sang Berlin là để
gặp các đồng chí để bàn về việc ấy và gặp Gorbachev. Trong một cuộc họp,
anh Linh nhận xét: Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này”.
Bị đối xử như thương gia tầm thường:
Ngày 4-10-1989, từ Hà Nội, hãng Interflug của Cộng hòa Dân chủ
Đức dành cho ông Linh một ghế hạng thương gia, các thành viên cao cấp
khác – Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Xuân Tùng, Phó
Ban Đối ngoại Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Tạ Hữu Canh và thư ký Lê Đăng
Doanh – chỉ ngồi khoang hành khách thường.
Bị xem thường:
Một lễ đón đơn giản được tổ chức tại sân bay Berlin-Schronefeld
rồi sau đó đoàn về khách sạn. …. Trong suốt chuyến thăm chính thức ấy,
phía CHDC Đức không thu xếp cho ông Linh một buổi gặp chính thức nào với
Honecker hay một nhà lãnh đạo khác. Thế nhưng, điều đó đã không làm ông
Nguyễn Văn Linh từ bỏ ý đồ đóng vai trò trung tâm cứu nguy chủ nghĩa xã
hội.
Đến nơi ở của các nhà lãnh đạo khác mới thấy cách đối xử của
Erich Honecker với ông Nguyễn Văn Linh. … Trong khi ông Linh chỉ được
xếp một phòng đôi lớn hơn phòng các thành viên khác trong đoàn một chút
thì chỗ ở của Ceausesscu là một khu vực gồm nhiều phòng. Ông
Linh và tùy tùng phải đi qua một sảnh lớn nơi có một đội cận vệ 12 người
bồng tiểu liên AK báng gập đứng chào. Ceaucesscu đã để ông Linh phải
ngồi chờ rất lâu. Ông Linh nói: "Mày liên hệ thế nào mà giờ không thấy
nó”. Tôi bảo: "Tính thằng này nó hình thức thế”. Một lúc sau thì
Ceausesscu ra, chính ông ta lại là người tỏ ra hăng hái ủng hộ sáng kiến
của ông Nguyễn Văn Linh nhất. Ceausesscu thậm chí còn đòi để Rumani
đăng cai. Tuy nhiên, cả Ceausesscu và các nhà lãnh đạo cộng sản khác đều
nói với ông Linh: "Vấn đề là ông kia, nếu ông ấy không đồng ý thì rất
khó”. "Ông kia” đề cập ở đây là Gorbachev.
Dù ông Linh rất nhiệt tình cứu XHCN nhưng người ta làm ngơ:
Trong ngày 6-10-1989, giữa Berlin rét mướt, ông Nguyễn Văn Linh
đã tìm gặp các nhà lãnh đạo cộng sản đến dự lễ quốc khánh để thảo luận
về một sáng kiến mà ông đưa ra: triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và
phong trào công nhân quốc tế. Ông Linh nói: "Phe ta đang diễn biến phức
tạp. Hơn bao giờ hết, đòi hỏi quốc tế vô sản phải siết chặt hàng ngũ.
Đảng Cộng sản Việt Nam thấy nên có một hội nghị để thống nhất tư tưởng
và hành động, tăng cường tình đoàn kết”.
Đa số các đảng cộng sản làm ngơ đề nghị của ông Linh, chỉ có
Batmunkho Tổng Bí thư Mông Cổ, Phó Thủ Tướng Hernandez của Cuba, Tổng Bí
thư Ceaucescu của Rumania, Tổng Bí thư Đảng vừa thất cử của Ba Lan
Jaruzelski, Chủ tịch Đảng Cộng Sản Tây Đức (DKP) Herbert Mies là chấp
nhận gặp. Chỉ có Helbert Mies, lãnh tụ của một đảng không cầm
quyền và Phó thủ tướng Cuba Hernandez là tự tới nơi ông Linh ở. Theo ông
Lê Đăng Doanh, những người khác chỉ tiếp ông Nguyễn Văn Linh tại phòng
riêng của họ.
Sau nhiều cuộc trì hoản thì ông Linh cũng được Gorbachev cho một cuộc
gặp mặt. Nhưng đó là một cuộc gặp mặt để Gorbachev khinh miệt ông Linh.
Chúng ta hãy đọc tiếp:
Từ 19 đến 21 giờ tối 6-10-1989, sau phần đọc diễn văn, cuộc
mit-tin được chuyển từ trong một lâu đài ra một lễ đài ngoài trời duyệt
quần chúng, thanh niên rước đuốc. Ông Lê Đăng Doanh kể: Đám thanh niên
tuần hành sôi lên sùng sục kêu tên Gorbachev, "Gorby! Gorby!”. Anh Linh
chỉ mặc bộ complet, tối nhiệt độ xuống khoảng 8 C, cận vệ quên mang áo
lạnh, ông Nguyễn Văn Linh đứng run bần bật, kêu tôi: "Tao lạnh quá”. Tôi
phải nói với một viên tướng Đức đứng cạnh đấy: "Tổng Bí thư của tôi
quên mang áo ấm”. Viên tướng cho mượn tạm tấm áo choàng của ông ta.
Sáng hôm sau, 7-10-1989, theo lịch trình, mười giờ sẽ có duyệt
binh, nhưng tám giờ, ông Nguyễn Văn Linh triệu tập họp Chi bộ Đảng thông
báo tình hình sức khỏe: "Mình thấy có gì đó không bình thường, không
nhắm được mắt, miệng cứng, không ăn được”. Về sau bác sỹ xác định đó là
triệu chứng liệt dây thần kinh số 7. Mọi người đề nghị ông Linh không ra
lễ đài, ông Nguyễn Khánh thay ông Linh dự duyệt binh rồi báo với "bạn”.
Phía CHDC Đức mời ông Linh ở lại khám chữa bệnh và khuyên ông không nên
về trong lúc này. Tuy bệnh tình càng ngày càng nặng, nước mắt chảy ra
nhiều, miệng có biểu hiện bị méo và nói bắt đầu khó khăn, ông Nguyễn Văn
Linh vẫn hy vọng rất nhiều vào cuộc gặp với Gorbachev.
Cuộc gặp Gorbachev dự kiến diễn ra lúc 10:30 sáng 8-10-1989,
nhưng chờ đến mười một giờ cũng không thấy văn phòng ông ta gọi lại. Ông
Linh rất sốt ruột. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó, sáng ngủ dậy,
bệnh ông Linh càng nặng thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì không
muốn tôi chứng kiến cảnh ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh
cứng lại. Ông phải nhai ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy
thức ăn vào họng, chiêu một ngụm nước mới nuốt được.
Cuộc gặp Gorbachev được lùi lại 2:30 rồi 5:30 chiều cùng ngày.
Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà lãnh đạo của cả phe xã hội chủ nghĩa, được
bố trí ở trong một tòa lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt Nam đã
không diễn ra trong phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh
mông vừa dùng cho một tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên
các bàn. Nhân viên dọn một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn
Linh. Gorbachev ra đón ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu
nói: "Kẻ cơ hội nhất hành tinh kính chào đồng chí Nguyễn Văn Linh”.
Dù đang bệnh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn trình bày rất nhiệt tình,
nhưng theo ông Lê Đăng Doanh: Sáng kiến nào của ông Linh cũng được
Gorbachev khen là "rất tốt” nhưng chỉ là những lời khen xã giao. Ông
Linh nói: "Tôi đã gặp một số đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này,
Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng
cộng sản và phong trào công nhân quốc tế”. Gorbachev liền giơ hai tay
lên tươi cười: "Ý này hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất tiếc là giờ tôi đang
nhiều việc quá!”. Ông Linh trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam.
Gorbachev lại kêu lên: "Hay quá nhỉ! Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có
nhiều lời mời quá mà chưa biết thu xếp cái nào trước”.
Cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề cập đến truyền thống
viện trợ của Liên xô và khi ông đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho Kế
Hoạch 5 năm 1990-1995 của Việt Nam thì Gorbachev xua tay. Không còn xã
giao, lịch sự như phần trên nữa, Gorbachev nói: "Khó khăn lắm, khó khăn
lắm, các đồng chí Việt Nam tự lo thôi”. Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế
nhưng, ngày hôm sau, báo Nhân Dân và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn
ra trong "tình hữu nghị thắm thiết”.
Đọc những đoạn trích dẫn rất sống động này tôi phải nói là rất nhục.
Là lãnh tụ một đất nước 90 triệu dân mà không nắm được tình hình thế
giới để bị các lãnh đạo của chính thế giới XHCN xem thường như thế. Ông
Nguyễn Mạnh Cầm có lẽ là người ngoại giao nên còn biết được tình hình
thế giới. Ông đưa ra nhận xét rằng "Nhận thức của một số đồng chí trong Bộ chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những thay đổi của tình hình thế giới”.
Không theo kịp tình hình thế giới có nghĩa là sống trong cái ao làng.
Chẳng biết ông Linh có hiểu những câu nói của Gorbachev hay không. Thật
là nhục nhã. Tất cả cũng vì cái dốt.
Cái dốt của lãnh đạo CS còn thể hiện qua lần tiếp kiến giữa ông Lê
Khả Phiêu và Bill Clinton. Trong buổi tiếp kiến, trong khi Bill Clinton
nói về tương lai hợp tác, ông Lê Khả Phiêu lại tận dụng chuyện Bill
Clinton "trốn lính” làm cho ông Bill Clinton rất giận và chắc chắc cũng
rất khinh thường người đối diện mình:
"Bill Clinton nhớ lại: "Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động
phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là
hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự
có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến
tranh. Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành
các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không
phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng
sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà
tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hóa Việt Nam”.
"Ông Phan Văn Khải nhớ lại: "Ông Phiêu nói như thời chiến tranh
làm cho họ rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền
cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ đây
đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai
quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn
trên thế giới không có ai vào cả”. …
Clinton nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt
Nam, chức vụ càng cao hơn thì ngôn ngữ càng "sặc mùi” cộng sản theo
kiểu cũ hơn”.
Sự dốt nát chính là một nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc bỏ lỡ cơ
hội để phát triển đất nước. Câu chuyện xung quanh ký hiệp định thương
mại song phương BTA cho thấy giới lãnh đạo thượng tầng CS rất sợ Trung
Cộng. Ông Nguyễn Mạnh Cầm nói "Tôi tiếc đứt ruột. Năm 1999, Bill
Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ cả phương Tây lẫn phương
Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ chỉ chờ có
hiệp định là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết bao
nhiêu cơ hội”. Không chỉ BTA, ngay cả những chần chừ để trở thành
thành viên của ASEAN cũng phản ảnh sự kém hiểu biết của những người lãnh
đạo CS chóp bu.
Sự dốt nát và kém hiểu biết của người CS không phải chỉ biểu hiện
trong giới lãnh đạo mà còn ở những người trong giới học thuật và chuyên
môn. Sau 1975 tôi đã có nhiều "tiếp cận” với những đồng nghiệp y khoa từ
Bắc vào. Tôi có thể nói một cách không ngần ngại rằng trình độ của họ
quá kém. Có lần một anh bác sĩ nghe nói là cấp cao ngoài đó mà viết tên
thuốc trụ sinh còn sai. Không phải sai một lần mà nhiều lần. Chỉ nhìn
nét chữ cũng có thể biết được anh chàng này thuộc thành phần bác sĩ gì.
Ngay cả những người được "chi viện” để tiếp thu trường y Sài Gòn cũng là
những người rất kém cỏi về kiến thức và kỹ năng lâm sàng. Họ bị các
thầy trong Nam khinh ra mặt. Do đó tôi không hề ngạc nhiên khi đọc những
dòng chữ viết về phản ứng của giới trí thức trong Nam trước những chính
sách quái đản được áp dụng sau 1975. Họ vận hành theo tư duy rặt mùi
cộng sản. Cứ đến ngày kỷ niệm nào đó họ hỏi có thành tích khoa học gì để
chào mừng và nhận được câu trả lời của thầy Phạm Biểu Tâm: "Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả”.
Sau này trong một lần họp bàn về cách giải quyết hệ thống nước bị đục,
giáo sư Phạm Biểu Tâm không phát biểu gì cả. Đến khi bị ông Võ Văn Kiệt
gặn hỏi, giáo sư Tâm vốn rất quý ông Kiệt, chỉ nói đơn giản "Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khoẻ, vì cái gì cũng đã có các anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.
Đối với giới trí thức miền Nam ngày ra mắt đầu tiên của chính quyền
không hề thuyết phục được họ. Cho đến bây giờ tình hình vẫn thế.
Bên thắng cuộc đã trở thành một tác phẩm bán chạy. Nếu được
công bố ở trong nước tôi nghĩ chắc chắn bộ sách sẽ qua mặt bất cứ cuốn
sách nào đang có trên thị trường. Đọc xong bộ sách tôi hiểu được tại sao
nó nổi tiếng. Theo tôi, Bên thắng cuộc được nhiều người quan
tâm vì trong đó có rất nhiều những câu chuyện hậu trường chính trị. Đặc
biệt hơn là tất cả những câu chuyện hậu trường đều nói lên những hình
ảnh tiêu cực của giới lãnh đạo CSVN. Khó tìm một câu chuyện nào mang
tính tích cực trong sách. Trong đó có những con người ít học nhưng ngạo
mạn. Đó là những con người đạo đức giả. Đó là những con người sẵn sàng
chấp nhận đớn hèn để sống trong môi trường tàn ác. Đó là những con người
tàn nhẫn và xảo trá. Những cá tính lãnh đạo như thế là tác giả của
những quyết sách đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Họ dẫn đất nước bỏ
mất cơ hội hết năm này sang năm khác. Những câu chuyện như thế giúp cho
chúng ta nhìn thấy rõ hơn cái tâm kém và cái trí thấp của một số đông
lãnh đạo chóp bu và giải thích tại sao đất nước và dân tộc chúng ta đã
quá bất hạnh trong suốt 70 năm qua. Họ là nguyên nhân gần và tác nhân
trực tiếp đã đưa đất nước nghèo hèn như hiện nay. Họ phải chịu trách
nhiệm trước lịch sử.
Nguồn: Blog Bs Ngọc