Những số liệu này chỉ có cho năm 2011 dù không đầy đủ và lại không
cập nhật hàng quý theo truyền thống quốc tế nhưng cũng là dấu hiệu đáng
mừng. Hình như Chính phủ muốn minh bạch hơn một chút. Chính sự thiếu
minh bạch này đã làm cho các bàn thảo về chính sách thiếu cơ sở, thậm
chí đưa đến những hành động sai lầm.
Bài viết ngắn này chỉ nhằm trình bày một số thông tin về nợ công, và
nợ qua hệ thống tín dụng ngân hàng, dựa vào số liệu vừa mới được cơ quan
có trách nhiệm của nhà nước cung cấp thay vì những số liệu mà người
viết phải nhặt nhạnh khắp nơi để tổng kết lại một cách không chính thức.
Nợ công
Nợ công theo định nghĩa của Việt Nam chỉ bao gồm nợ của Chính phủ
(gồm cả chính quyền trung ương và địa phương) hoặc nợ được Chính phủ bảo
lãnh. Nợ bao gồm nợ vay ngân hàng và nợ qua phát hành công trái, cũng
như chi phí phải trả mà chưa trả được.
Nợ công theo định nghĩa quốc tế bao gồm nợ theo định nghĩa của Việt
Nam và nợ của doanh nghiệp nhà nước. Nợ theo định nghĩa quốc tế rõ ràng
là phù hợp với tình hình Việt Nam. Chính vì nhà nước làm sở hữu chủ của
DNNN do đó mà nhà nước không thể phủi tay để chủ nợ đòi bán tài sản thu
nợ theo đúng luật phá sán, như ta đã thấy là nợ của Vinashin đã được
chính quyền dồn cho các DNNN khác phải trả.
Bảng 1. Nợ công của Việt Nam năm 2011
|
Tỷ đồng |
Tỷ US |
So với GDP |
Nợ công theo định nghĩa Việt Nam |
1,391,478 |
66.8 |
55% |
Nợ của chính phủ |
1,085,353 |
52.1 |
43% |
Nợ chính phủ bảo lãnh |
292,210 |
14.0 |
12% |
Nợ chính quyền địa phương |
13,915 |
0.7 |
1% |
Nợ công theo định nghĩa quốc tế |
2,683,878 |
128.9 |
106% |
Nợ công theo định nghĩa Việt Nam |
1,391,478 |
66.8 |
55% |
Nợ của DNNN (trong và ngoài nước) |
1,292,400 |
62.1 |
51% |
Nguồn và chú thích: Vương Đình Huệ, Bộ Tài chính. Trong nợ nước
ngoài của DNN có thể có 1 phần do chính phủ bảo lãnh cho nên tổng nợ có
tính trùng, phải trừ đi khỏi nợ DNNN, cao nhất là 14 tỷ.
Như vậy là tổng nợ công theo định nghĩa quốc tế vào cuối năm 2011
đã là 128.9 tỷ USD bằng 106% GDP (121.7 tỷ USD), cao hơn 90 tỷ USD mà
trước đây tác giả ước tính ở mức tối thiểu.
Tổng số nợ của DNNN là 62.1 tỷ USD bằng 55% GDP.
Mức trần tỷ lệ nợ công trên GDP không quá 65% GDP vào năm 2015 mà
Chính phủ đề nghị Quốc hội đã bị vượt qua từ lâu rồi. Không ý thức được
điều này thì chính sách trong tương lai sẽ không thể phù hợp.
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực trả nợ
Theo ông Huệ, hệ số nợ trên tính trên vốn tự có là 1,77. Thông
thường, người có 1 đồng vốn có thể dễ dàng đi vay thêm 1 đồng vốn nữa
như vậy thì tỷ lệ trên là 1. Nếu tỷ lệ càng cao thì mức rủi ro trong sản
xuất càng lớn vì áp lực phải trả lãi. Với hệ số nợ là 1,77, thì 64% là
vốn vay. Chúng ta có thể dễ dàng làm mô hình về khả năng phá sản của
công ty. Thí dụ nếu lãi suất trả nợ là 15% nhưng lợi nhuận chỉ là 10%
trên vốn đầu tư thì lợi nhuận (tính theo doanh thu trừ chi phí phi tài
chính) chỉ đủ trả lãi. Nếu lợi nhuận thấp hơn 10% thì công ty lỗ, mất
khả năng trả nợ. Phải chăng đây là trường hợp của hầu hết DNNN và cả
DNTN hiện nay? Theo ông Huệ, có đến 30 tập đoàn, tổng công ty hệ số nợ
phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó có 8 đơn vị có hệ số
trên 10 lần, 10 doanh nghiệp từ 5 – 10 lần, 12 tập đoàn, tổng công ty từ
3 – 5 lần. Như vậy có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ. Nếu
không giảm được lạm phát, qua đó giảm lãi suất thì doanh nghiệp nói
chung khó có khả năng sống còn.
Bảng 2. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011
|
Hệ số trên vốn tự có của DNNN |
Tỷ lệ |
Vốn tự có |
1 |
36% |
Vốn vay |
1.77 |
64% |
Tổng vốn |
2.77 |
100% |
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực ngân sách
Nếu 8.8% là nợ xấu thì tổng số nợ xấu trong nợ công sẽ là 11.3 tỷ
USD. So với tổng ngân sách thu của nhà nước năm 2011 là 33.8 tỷ USD bằng
28% GDP thì con số nợ xấu trên rất lớn, vượt ngoài sức chịu đựng của
ngân sách. Trong việc giải quyết nợ công xấu, ai sẽ là người chịu
thiệt? Không lẽ ngân sách chỉ dùng để trả nợ xấu? Hay in tiền tạo lạm
phát?
Nợ nước ngoài
Hiện nay nợ nước ngoài vẫn chưa được Bộ Tài chính công bố cho năm
2011. Con số năm 2010 ở bảng 3 là từ Bộ Tài chính, nhưng con số năm 2011
là ước tính dùng tốc độ tăng của năm trước. Nợ nước ngoài chưa phải là
điều đáng lo vì nó chỉ bằng 39.8% GDP. Tuy nhiên, nợ nước ngoài của khu
vực doanh nghiệp tăng mạnh những năm gần đây; điều này mới là đáng lo
ngại vì thường chúng là nợ trung hạn chứ không phải nợ dài hạn của Chính
phủ.
Bảng 3. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011
|
Năm 2010 |
Ước tính 2011 theo mức tăng 15% của năm trước |
Tổng nợ nước ngoài |
42.2 |
48.5 |
Nợ công theo định nghĩa VN |
32.2 |
37.0 |
Nợ chính phủ |
27.6 |
31.7 |
Nợ chính phủ bảo lãnh |
4.6 |
5.3 |
Nợ doanh nghiệp |
10 |
11.5 |
Tổng nợ công |
|
128.9 |
Nợ ngân hàng nội địa
So với các nước trong khu vực, tín dụng từ nguồn hệ thống tín dụng
nội địa ở Việt Nam là rất cao; tỷ lệ tín dụng lên tới 121% GDP, nhất là
khi nền kinh tế Việt Nam còn ở mức thấp (bảng 4). Dựa vào tín dụng thay
vì vốn tự có để phát triển kinh tế dễ đẩy nền kinh tế đến chỗ bong bóng.
Tỷ lệ tín dụng cao so với GDP và cụ thể hóa trong Bảng 2 ở tỷ lệ vốn
vay trên vốn tự có đã nói rõ lên điều này.
Bảng 4. Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng trên GDP
|
Tổng dư nợ nội địa trên GDP |
Trung Quốc |
145.9 |
Ấn độ |
75.1 |
Indonesia |
38.5 |
Mã Lai |
132.1 |
Philippines |
51.8 |
Singapore |
93.6 |
Thái Lan |
150.0 |
Việt Nam |
120.9 |
Nguồn: Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012
Tổng nợ của DNNN được tính là 62.1 tỷ USD (Bảng 1) trong khi theo báo
cáo của Việt Nam với Ngân hàng châu Á (ADB) và IMF, DNNN chỉ vay từ hệ
thống tín dụng là 24.5 tỷ USD (490.000 tỷ đồng ở bảng 5). Vậy thì 37.6
tỷ phải là từ trái phiếu hoặc nợ nước ngoài. Theo Bản tin số 7 của Bộ
Tài chính, nợ nước ngoài của DNNN cao nhất là 11.5 tỷ USD (vì con số này
gồm cả nợ của doanh nghiệp tư nhân). Vậy thì 26.5 tỷ USD còn lại trong
nợ của DNNN ở đâu mà ra. Có lẽ NHNN đã tính sai nợ tín dụng DNNN vào nợ
tư nhân không chừng?
Bảng 5. Dư nợ của hệ thống ngân hàng, 2011
|
Tỷ đồng |
Tỷ US |
Tỷ lệ |
Tổng tín dụng của hệ thống ngân hàng |
3,063,000 |
147.1 |
100% |
Chính phủ vay |
232,000 |
11.1 |
8% |
DNNN vay |
490,000 |
23.5 |
16% |
DN tư nhân& hộ gia đình vay |
2,341,000 |
112.4 |
76% |
Nguồn: ADB Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012
Phân phối tín dụng trong hệ thống ngân hàng
Có thể dựa vào số liệu từ NHNN và Tổng cục Thống kê để thấy rằng,
phân phối tín dụng trong hệ thống không phản ánh hoạt động chung của nền
kinh tế. Nông nghiệp, thủy sản, lâm sản chỉ được hưởng tỷ lệ tín dụng
bằng gần ½ tỷ lệ đóng góp vào nền kinh tế. Ngược lại xây dựng được gần
gấp đôi. Nhưng hầu hết tín dụng (67%) là chui vào khu vực thương mại và
dịch vụ, gấp gần gấp hai lần so với mức đóng góp của chúng vào nền kinh
tế. Hình như đây là lần đầu tiên NHNN công bố số liệu như thế này. Thật
ra chúng cần được công bố thường xuyên vì vấn đề được đặt ra là hệ
thống ngân hàng phục vụ ai trong nền kinh tế.
Bảng 6. Phân phối dư nợ tín tụng trong nền kinh tế, tháng 7 năm 2012
|
Tỷ đồng |
Tỷ lệ |
Tỷ lệ hoạt động kinh tế trên GDP |
Tổng tiền gửi |
2,693,667 |
|
|
Dư nợ trên tổng tiền gửi |
|
81% |
|
Dư nợ cho hoạt động kinh tế |
2,176,073 |
100% |
100% |
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản |
257,829 |
12% |
21% |
Công nghiệp, xây dựng |
1,160,634 |
53% |
42% |
Công nghiệp |
894,013 |
41% |
35% |
Xây dựng |
266,621 |
12% |
7% |
Thương mại, vận tải, viễn thông |
757,610 |
35% |
19% |
Thương mại |
610,184 |
28% |
14% |
Vận tải, viễn thông |
147,426 |
7% |
4% |
Dịch vụ khác |
703,989 |
32% |
19% |
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Để kết luận, có thể tóm tắt vài điều nhận xét sau:
a) Kinh tế Việt Nam phát triển bong bóng vì chủ yếu dựa vào tín
dụng ngân hàng, bằng cách bơm tiền quá lố. Điều này đưa đến lạm phát và
ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng chi trả của doanh nghiệp khi bắt
buộc phải thực hiện chính sách chống lạm phát.
b) Tín dụng của hệ thống ngân hàng được phân phối chủ yếu (67%)
vào những hoạt động dịch vụ không rõ ràng. Những hoạt động này có thể là
những hoạt động đầy rủi ro như chứng khoán, mua địa ốc (khác hoàn toàn
với hoạt động xây dựng tạo ra việc làm), lập ngân hàng, v.v. Có thể nói
dường như hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động không nhằm phục vụ sản
xuất.
c) Để có thể cải cách và bốc thuốc đúng lúc, các cơ quan quản lý
nhà nước cần minh bạch số liệu thường xuyên, không thể để tình trạng như
hiện nay như đã vào cuối năm 2012 mà chỉ mới biết số liệu năm 2011,
thậm chí năm 2010. Số liệu tài chính tín dụng cần được xuất bản hàng quý
cho mọi người sử dụng.
17-11-12
V.Q.V.
Nguồn: diendan.org