Dự thảo "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung và phát triển năm 2010”
không có ghi nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận – một vấn đề mà các
Hiến pháp từ năm 1946 đến nay đã ghi nhận, dù chưa được thực hiện đầy
đủ.
Trong dự thảo Cương lĩnh ở mục 6 nói về "Xây dựng nền văn hóa
tiên tiến” có đoạn viết: "Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do
sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng
đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có
hiệu quả sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc".

Bảo đảm "quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân" chỉ là một phần của quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Quyền
tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của công dân Việt Nam
được quy định trong tất cả các Hiến pháp của nước Việt nam từ Hiến pháp
1946 đến Hiến pháp 1992. Nhà nước tạo điều kiện để công dân có quyền tự
do báo chí, tự do ngôn luận, quyền được thông tin theo quy định của
pháp luật". Việc "Phát triển các phương tiện thông tin”
là tạo ra nhiều thiết bị, công cụ phục vụ cho việc truyền đạt các yêu
cầu tuyên truyền của nhà nước tới người dân thuận tiện hơn, chứ chưa
hẳn đó là công cụ thực hiện quyền tự do báo chí của người dân.
Trong quyển "Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông dương" do Nguyễn Ái Quốc viết từ những năm 1921 – 1926 có đoạn: "Mãi
tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một tờ
báo nào cả. Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn
học như ta thấy ở Châu Âu và các nước Châu Á khác chứ không phải một tờ
báo do chính quyền thành lập…” (Hồ Chủ tịch với báo chí, Hội nhà
báo TP HCM, 1980, trang 9). Như vậy, có thể hiểu năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc gửi thư đến Hội nghị Versailles đòi quyền tự do báo chí cho nhân
dân Việt Nam là đòi quyền tự do cho từng người, cho mỗi "một người". Tư
tưởng đó sau Cách mạng Tháng 8, được Hồ Chí Minh diễn đạt một cách dân
dã, giản dị: Dân chủ là để cho dân mở mồm ra nói. Dân chủ là đừng bịt miệng dân.
Đọc lại lời mở đầu Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết: "Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Có thể hiểu quyền
tự do của con người là quyền tự nhiên, không do ai ban cho mà là bản
chất của con người để tồn tại. Thomas Jefferson nói: "Chính phủ lập ra không phải để ban phát các quyền tự do mà để bảo vệ nó".
Hiến pháp Việt Nam ghi nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhưng
Luật báo chí lại không cho phép tư nhân có quyền ra báo! Mặc dù nếu cho
phép ra báo tư nhân mà quản lý theo cách từng thời gian ra chỉ thị
những vùng cấm không được nói (dù không thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia
hay đạo đức xã hội) thì cũng chưa có tự do báo chí. Karl Marx nói: Đối
lập với báo chí tự do là báo chí bị kiểm duyệt. Ông cho rằng, báo chí
bị kiểm duyệt là "con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm nước hoa".
Báo chí của ta hiện nay là tiếng nói của tập thể các giới thông qua
đoàn thể chính trị xã hội của giới mình. Đó cũng là một bước dài (một
nửa?) trên con đường tự do báo chí của nhân dân ta. Chúng ta mới có tự
do báo chí cho tập thể chứ chưa có tự do báo chí cho từng người dân.
Tức là chưa có mỗi "người dân được mở mồm ra nói". Có lẽ nền
báo chí đó chỉ thích hợp với thời chiến, chứ không còn thích hợp trong
thời bình, đặc biệt là trong thời hội nhập quốc tế. Ngày nay những quốc
gia có chế độ quản lý báo chí siết chặt gần giống với ta chỉ còn đếm
trên đầu ngón tay!
Từ sau Đổi mới mở cửa hội nhập quốc tế, Việt Nam được bạn bè khen
ngợi về thành tích phát triển kinh tế, nhưng thường xuyên bị chê trách
về việc không thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận. Các cơ quan
theo dõi tự do báo chí quốc tế luôn xếp Việt Nam ở dưới hơn 150 nước
khác! Hội đồng nhân quyền họp năm 2009 có 15 quốc gia đề nghị Việt Nam
sửa đổi Luật báo chí sao cho phù hợp với Điều 19 của Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã gia
nhập từ 24 tháng 9 năm 1982,
Điều 19:
1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.
2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự
do tìm kiếm, nhận, và truyền đạt mọi tin tức, ý kiến, không phân biệt
ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng chữ viết, in, hoặc
bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác
tùy theo sự lựa chọn của họ.
3 – Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 của điều này kèm
theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn tới một
số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật
quy định và cần thiết để:
a/ Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
b/ Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng.
Chế độ quản lý báo chí của Việt Nam trái với nội dung Điều 19 nói
trên, được thể hiện trong phát biểu của ông Bộ trưởng Bộ Thông tin –
Truyền thông ngày 4 tháng 8 năm 2007 tại Hội trường Quốc hội:
- "Tổng biên tập là người của Bộ Thông tin – Truyền thông sau này cắm ở từng tờ báo".
- Báo chí "hoàn toàn có tự do, nếu đi đúng lề đường bên phải và chúng tôi sẽ cố gắng làm cho các đồng chí lề đường đó".
Từ phát biểu nói trên đã đẻ ra bao chuyện phản ứng, châm biếm: Báo
chí lề phải, báo chí lề trái; hơn 700 tờ báo ở Việt Nam chỉ do một Tổng
biên tập điều hành!
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần nói: ”Kiên quyết không để tư
nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá
nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn
hại lợi ích đất nước".
Toàn dân Việt Nam chắc chắn không ai dung tha kẻ nào có hành vi gây
tổn hại lợi ích đất nước. Thế nhưng không có cơ sở nào để cho rằng thực
hiện tự do báo chí và cho ra báo tư nhân thì sẽ bị lợi dụng gây tổn hại
lợi ích đất nước. Bởi vì:
1- Trong chế độ ta đã từng thực hiện tự do báo chí và sự cho phép ra
báo tư nhân đã thu được kết quả rất tốt đẹp. Sau Cách mạng Tháng 8, mặc
dù có nhiều đảng phái hoạt động rất phức tạp, nhà nước non trẻ vẫn thực
hiện tự do báo chí, cho ra nhiều tờ báo tư nhân. Lúc ấy tuy trình độ
dân trí còn thấp nhưng nhân dân vẫn nhận ra tiếng nói chính nghĩa,
tuyệt đối tin theo những tờ báo có tiếng nói bảo vệ độc lập, thống nhất
Tổ quốc. Sau khi giặc Pháp chiếm Hà Nội, trong các tờ báo rút ra ngoại
thành có tờ báo tư nhân Bạn Trẻ được Ủy ban kháng chiến Khu 3 đánh giá
là tờ báo hàng đầu về kỹ thuật làm báo. Nhà nghiên cứu Nhật Hoa Khanh
đã sưu tầm được bản tin đăng trên báo Độc Lập về cuộc họp báo ngày
21-3-1946 của Phó Chủ tịch nước, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng
thông báo việc ban hành sắc lệnh cho phép báo chí xuất bản không phải
xin phép mà chỉ thông báo cho các nhà chức trách biết.
2- Sau 1975, tờ báo tư nhân Tin Sáng đã tồn tại hơn 4 năm, đóng góp
rất lớn cho việc ổn định tư tưởng đối với đồng bào miền Nam. Tờ báo
được cho "hoàn thành nhiệm vụ” chỉ vì thực hiện đường lối cải tạo xã
hội chủ nghĩa toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội của Nghị quyết Đại
hội 4 của Đảng. Nhiều cán bộ phóng viên báo Tin Sáng đã góp phần cải
tiến các báo Tuổi trẻ, Sài Gòn Giải phóng, Lao động…
3- Không cần thuyết lý dài dòng, ai cũng phải đồng ý rằng thực dân
Pháp coi nhân dân ta là những kẻ nô lệ mất nước, bị chúng cai trị.
Chúng luôn phải đề phòng đồng bào ta lợi dụng báo chí để kích động lòng
yêu nước, chống lại chúng. Thế nhưng theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc "Về tình hình chính trị ở Đông Dương từ 1936 đến 1938",
phần nói về báo chí, ông cho biết cả nước ta lúc đó có 12 tờ báo "tán
thành đòi tự do dân chủ và ân xá chính trị phạm". Nguyễn Ái Quốc viết: "Tờ
Dân chúng (ở trên người đã chú thích Dân chúng là tờ báo cộng sản) xuất
bản ở Sài Gòn, là tờ báo đầu tiên đã bất chấp đạo luật cấm phát hành
báo nếu không được cho phép trước. Sau khi nó ra đời một tháng, quyền
tự do báo chí được ban hành" (Hồ Chủ tịch với báo chí).
Chẳng lẽ chúng ta ngày nay cảnh giác đối với đồng bào mình còn gay
gắt hơn bọn thực dân Pháp ngày xưa? Câu hỏi này, tôi chỉ lặp lại lời
cầu xin Quốc hội của nhà báo cộng sản tiền bối là cụ Nguyễn Văn Trấn,
Ủy viên Ban biên tập báo Dân chúng nói trên.
Những người bênh vực cho việc tiếp tục để các cơ quan của Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể quản lý chặt báo chí như hiện nay lập luận rằng:
Làm như vậy là để cho toàn dân chỉ nghe một quan điểm chính thống. Nhờ
đó không có người nào bị phân tâm, tất cả đồng thuận, tạo nên sức mạnh,
chống lại sự xuyên tạc, chống phá, xuyên tạc của bọn thù địch. Thực tế
chứng minh ý kiến trên hoàn toàn không chính xác. Trong thời đại bùng
nổ thông tin, cách quản lý nói trên không thể bịt miệng những người có
ý kiến phản biện, mà tác dụng ngược là tự bó tay mình, tự bịt miệng
mình và làm tăng thêm sự tin cậy của người dân đối với các trang web,
các blog, các báo đài nước ngoài. Nhà bình luận báo chí nổi tiếng F. B.
White cho rằng, sự đa dạng của thông tin tự do có cái hay là, nhiều chủ
thể cùng theo đuổi một sự thật thì người dân có nhiều cơ hội để nhận ra
chân lý; mọi ý đồ xấu sẽ nhanh chóng bị phát hiện, kẻ xấu không tìm đâu
ra chỗ ẩn nấp. Có một câu danh ngôn bênh vực cho tự do báo chí là: "Phương thuốc chữa sai sót của tự do ngôn luận là hãy tự do ngôn luận hơn nữa”.
Tiếp tục quản lý báo chí như hiện nay thì sẽ có hại gì? Chỉ xin phân tích vài điều trong rất nhiều điều có hại.
Đài Truyền hình Việt Nam đang chiếu bộ phim Bí thư Tỉnh ủy, chuyện
phim phỏng theo cuộc đời của ông Kim Ngọc. Hồi sự kiện ông Kim Ngọc xảy
ra, các nhà báo chúng tôi cũng có nghe xì xầm, nhưng nghe rồi để lại
tiếp tục xì xầm với nhau thôi. Chẳng có nhà báo nào, kể cả những cây
bút chuyên viết về nông nghiệp rất nổi tiếng thời ấy xem đó là đề tài
nóng mà mình có trách nhiệm điều tra và bảo vệ. Trí tuệ và lương tâm
của nhà báo xã hội chủ nghĩa không nằm ở đây. Đảng đã bao cấp trí tuệ
và cả lương tâm nghề nghiệp trong những vấn đề đại sự như thế rồi! Nhà
báo chỉ có trách nhiệm xông pha dưới ánh sáng của các Nghị quyết Đảng
để xem ở đâu, người nào đi chệch hướng! Bây giờ nhìn lại, tiếc phải chi
ngày ấy có tờ báo nào, nhà báo nào có quyền, hoặc có gan dám đăng ý
kiến của ông Kim Ngọc và hàng ngàn ý kiến của nông dân đang trăn trở
cùng ông ấy thì chắc chắn chân lý đã sớm lộ ra hơn 20 năm và đồng bào
ta được ấm no cũng sớm hơn 20 năm!
Năm 2009, trả lời TuanVietnam.net, nhà báo Hữu Thọ, cũng đồng thời là nhà lý luận lớn về báo chí của chế độ, nói: "Chúng ta đang làm báo ở thời kỳ tế nhị cả về đối ngoại, kinh tế".
Có lẽ các nền báo chí tự do sẽ không thể hiểu được tại sao lại có một
nền báo chí "tế nhị”?! Chẳng là, báo chí Việt Nam đang vướng trong việc
gọi đúng tên nước đưa tàu ra Biển Đông bắn giết ngư dân Việt Nam! Bạn
ư? Không được! Thù ư? Càng không được! Đành phải tế nhị gọi chúng là
nước lạ, tàu lạ vậy!
Câu trả lời của ông Hữu Thọ làm tôi nhớ lại chuyện ở Hội nghị tổng
kết công tác báo chí năm 1989, gồm các Tổng biên tập các báo chí Trung
ương, do ông Đào Duy Tùng – Ủy viên Bộ Chính trị chủ trì. Trong năm đó,
báo Tuổi trẻ có đăng bài bút ký của nhà báo Kim Hạnh – Tổng biên tập
báo này, miêu tả rất sinh động tệ sùng bái cá nhân lãnh tụ Kim Nhật
Thành ở Bắc Triều Tiên. Ngoại giao Bắc Triều Tiên lập tức có công hàm
phản đối Việt Nam xúc phạm lãnh tụ vĩ đại của họ. Ông Tùng đề nghị mổ
xẻ sự việc này, rút kinh nghiệm cho các báo biết né tránh những gai góc
khi đăng bài có liên quan đối ngoại với các nước phe ta. Ông Hà Xuân
Trường – Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản xin
hiến kế. Ông Trường cho rằng, sở dĩ Bắc Triều Tiên có cớ để phản ứng
bài báo của Kim Hạnh là do cơ chế quản lý báo chí của Đảng: "Báo chí là công cụ của Đảng nói tiếng nói của Đảng”. Để tránh bị phản ứng kiểu này, nhân đây, nên đổi mới, thay đổi cơ chế quản lý báo chí: "Đảng
lãnh đạo báo chí, nhưng mỗi tờ báo có tiếng nói riêng của mình. Như vậy
tờ báo nào nói thì tờ báo đó chịu trách nhiệm, chứ không phải Đảng chịu
trách nhiệm cho tất cả…”. Hình như ông Trường chưa nói hết ý mình thì ông Đào Duy Tùng đã cắt lời ông: ”Đồng
chí phụ trách tạp chí lý luận cao nhất của Đảng, chẳng lẽ đồng chí quên
rằng, báo chí là công cụ của Đảng, một vấn đề của tính nguyên tắc? Đó
là vấn đề bất di bất dịch, không bao giờ được phép thay đổi, không có
đổi mới ở chỗ này!”
Đã qua 20 năm, do "không có đổi mới ở chỗ này" mà báo chí
Việt Nam vẫn bị vướng vào chứng bệnh "tế nhị” rất nan giải! Vấn đề sẽ
dễ dàng biết bao nhiêu nếu mọi ”người dân được mở miệng ra nói" và sẵn
sàng chịu trách nhiệm. Tám mươi triệu dân Việt Nam có đủ cách nói phong
phú, sinh động và chịu trách nhiệm thay cho Đảng và Nhà nước trong
những câu chuyện tế nhị mà về phương diện quốc gia chưa cần phải lên
tiếng. Trong một dịp tới Hoa Kỳ, tôi rất ngạc nhiên khi đọc một tờ báo
tiếng Việt, tức là báo của những người đang "ở nhờ” nước người ta, lại
dám chạy một hàng tít lớn đầu trang nhất: "Tổng thống Bush, kẻ phản bội lý tưởng dân chủ".
Đó là tiếng nói của một số người còn mang nặng hận thù. Tiếng nói đó
không làm lung lay chiếc ghế Tổng thống Mỹ, ngược lại giúp Tổng thống
biết chính sách của mình có bao nhiêu người dân chưa đồng tình, họ
thuộc thành phần nào và nên giải quyết thế nào. Tiếng nói đó gây tranh
cãi trong người Việt, dần dần tạo nên xu thế hòa giải.
Mới đây, sự kiện Ủy ban giải thưởng Nobel của Na Uy quyết định trao
giải thưởng Hòa Bình cho ông Lưu Hiểu Ba là một sự kiện lớn, được báo
chí quốc tế tốn nhiều giấy mực. Báo chí Việt Nam chỉ đưa tin Trung Quốc
phản đối, cho rằng ông Lưu là một tội phạm, việc trao giải là vi phạm
các nguyên tắc của giải Nobel và làm tổn hại quan hệ Trung Quốc – Na
Uy. Có lẽ báo chí Việt Nam lại bị "thời kỳ tế nhị về đối ngoại" trong vụ này!
Tự do báo chí, tự do ngôn luận, vấn đề được loài người tiến bộ tiếp
nhận hơn 200 năm rồi, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lên tiếng đòi hỏi
cho dân tộc 100 năm rồi và nay đang trong xu thế của thời đại. Tại sao
những nhà lý luận soạn thảo Cương lĩnh chưa bức xúc ghi nhận một cách
sâu sắc, để luồng gió tự do bùng lên phơi phới mọi tâm hồn Việt Nam
khát khao?
Ngày 10 tháng 10 năm 2010
T. V. C.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN