(320 ngàn quân Trung Cộng từng tham gia chiến tranh Việt Nam)
Trần Trung Đạo
Quân số Trung cộng tham gia chiến tranh Việt nam được tiết lộ trong những tài liệu trước đây:
Bên cạnh Liên-Xô, vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ
khí, đã có 16 sư đoàn với 170 ngàn quân Trung cộng tại miền Bắc Việt Nam
để yểm trợ cho đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng
đai an ninh của Trung cộng. Tội ác của đảng Cộng sản Trung cộng đối với
dân tộc Việt Nam, từ các tư tưởng độc hại đến võ khí giết người, từ cải
cách ruộng đất đến đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ chiến tranh biên giới đến
trận chiến Lão Sơn, không thể viết hết trong một bài, trong một cuốn
sách mà phải xây dựng một trung tâm dữ kiện.
(Theo Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương trong
http://www.trantrungdao.com/?p=290
Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương
HangDuong1:
Một ngày hè như thế này 29 năm trước, người anh cùng sở làm và cũng
cùng quê Đà Nẵng ghé qua hỏi tôi có thích đi Côn Đảo một chuyến với anh.
Không giống như khi được các anh chị khác rủ đi thăm miền bắc trong
những lần họ nghỉ phép về thăm nhà mà tôi đã từ chối trước đây, Côn Đảo
có một hấp lực cực mạnh khiến tôi gật đầu không chút gì ngần ngại. Chiếc
ghe vượt biên anh đóng sắp hoàn tất và đã hứa dành cho tôi một chỗ.
Nghĩ đến việc ra đi không hẹn ngày trở lại, thăm Côn Đảo là dịp hiếm hoi
không thể bỏ qua. Côn Đảo là đất lịch sử của cách mạng Việt Nam, điểm
hẹn của những tâm hồn yêu nước và cũng là nơi nhà cách mạng Phan Chu
Trinh từng tả "Bốn mặt dày vò oai sóng gió / Một mình che chở tội non
sông” trong bài thơ "Đập đá Côn Lôn” nổi tiếng của ông. Người anh cùng
sở làm lo hết các phương tiện cần thiết, và như thế chúng tôi đi. Anh có
vài việc phải đi, còn tôi chỉ đi theo cho biết chứ không làm gì cả.
Khi anh làm xong việc, thời gian còn lại anh em chúng tôi đi vài nơi
trên đảo. Côn Đảo ngày chúng tôi đến còn rất hoang vắng. Những khu tù
chính trị đã giải tán từ lâu. Tù chính trị mới không bị đưa ra đây mà
vào Chí Hòa, Phan Đăng Lưu hay các trại tù miền Bắc. Các khu trại giam
Côn Đảo đã trở thành một viện bảo tàng nhưng ít có người thăm. Bên cạnh
những xà lim nơi các đảng viên Cộng sản cấp trung ương từng bị giam giữ,
Côn Đảo còn có những khu nổi tiếng vì được báo chí phản chiến Mỹ và
Việt khai thác tận tình như chuồng cọp, chuồng bò. Khu chuồng cọp được
xây từ thời thực dân, cũ kỹ, kích thước rộng bằng những lớp học nối tiếp
nhau. Đặc điểm của khu chuồng cọp là phòng giam không có mái che mà chỉ
có những bờ tường dày và thanh sắt lớn. Chị coi sóc ở đây, vốn là một
tù nhân Côn Đảo, cho biết trên bờ tường dựng sẵn nhiều thùng vôi bột,
nếu tù nhân la ó, phản đối, trật tự tù sẽ đổ vôi xuống.
Trên đường ra về chúng tôi đi theo chị coi sóc nhà tù đến nghĩa địa
Hàng Dương. Nắng đã dịu nhiều. Mặt trời đang xuống dần bên kia đỉnh núi.
Được gọi là Hàng Dương có lẽ vì chung quanh nghĩa địa có rất nhiều
dương liễu. Nghĩa địa có nhiều khu. Mỗi khu có vài trăm ngôi mộ. Chị
trịnh trọng giới thiệu một ngôi mộ mà chị gọi là rất linh thiêng: mộ chị
Võ Thị Sáu. Tôi không biết gì nhiều về chị Sáu ngoài bản nhạc bắt đầu
với "Mùa lêkima nở, ở quê tôi miền đất đỏ” và đọc đâu đó chuyện chị bị
xử bắn khi còn trong tuổi vị thành niên. Tấm bia trên mộ chị Sáu hướng
về phía biển và nỗi bật lên vì ngày đó đã được xây cao hơn các ngôi mộ
khác. Phía sau mộ chị Sáu có một cây dương liễu cụt ngọn, cằn cỗi, trên
tàn cây có những chồi xanh nhú lên. Việc một cây bị chặt ngọn nên sinh
ra những nhánh non là chuyện bình thường nhưng qua lời giải thích của
chị hướng dẫn thì đó là một điều kỳ diệu, một dấu chứng linh thiêng,
điềm báo của một cái cũ tàn đi nhưng những cái mới ra đời. Ngay cả một
cây dương liễu cũng được giải thích bằng lý luận và niềm tin Cộng Sản.
Anh tôi không
thích cảnh nghĩa trang buồn tẻ nên đã đi dạo nơi khác. Cả chị hướng dẫn
cũng đi ra ngoài. Tôi ngồi một mình nhìn mấy trăm ngôi mộ, có tên và
không tên, được đắp và không được đắp, cao thấp không đều. Bên cạnh một
số mộ có bia, tên tuổi và vừa được chỉnh trang, hẳn là của các đảng viên
Cộng sản cao cấp, rất nhiều ngôi mộ không có ngay cả tấm thẻ gỗ ghi
tên, cỏ mọc đầy sau nhiều năm chưa được một lần chăm sóc. Phần lớn các
ngôi mộ trong nghĩa địa Hàng Dương là dấu tích tàn ác của thực dân Pháp.
Thời Việt Nam Cộng hòa, chuyện ở tù Côn Đảo cho đến chết là chuyện hiếm
hoi. Hầu hết tù chính trị chỉ ở một thời gian ngắn trước khi được đưa
ra Thạch Hản, Thiện Ngôn, Lộc Ninh, Bồng Sơn để trao trả về phía bên kia
như đã ghi lại một cách chi tiết trong tác phẩm ký sự Tù binh và hòa
bình của nhà văn Phan Nhật Nam.
Hôm qua, khi bắt
đầu viết bài này tôi vào Google tìm mộ chị Võ Thị Sáu. Cây dương liễu đã
chết và được thay vào đó bằng cây phượng đỏ. Ngôi mộ của chị cũng được
xây bằng đá đen, cao hơn ngôi mộ cũ nhiều và không phải sơn màu vôi
trắng như lần tôi đến. Nghĩa địa Hàng Dương bây giờ là một trung tâm du
lịch, màu sắc lòe loẹt, không còn những mộ cỏ hoang vu, những con đường
đất hẹp và những hàng dương cằn cỗi chung quanh. Tôi không cảm thấy chút
nào xúc động khi nhìn lại cảnh nghĩa địa Hàng Dương mà chỉ tội nghiệp
cho các em học sinh đang sắp hàng vào xem các di tích được gọi là cách
mạng ở Côn Đảo. Các em đi xem kịch mà tưởng mình đang tìm về lịch sử cha
ông.
Một trong những
đặc điểm của chế độ Cộng sản là lừa dối. Không phải chỉ Việt Nam mà mọi
quốc gia Cộng sản đều như thế. Khi chế độ Cộng sản Đông Đức sụp đổ, báo
chí khám phá trong cơ sở dữ liệu của cơ quan an ninh Stasi một hệ thống
lừa dối có tầm vóc quy mô ngoài giới hạn đạo đức của con người. Việc
nghi kỵ, lừa dối không chỉ ở nằm trong hệ thống đảng, các cơ quan nhà
nước, mà cả trong mỗi gia đình ruột thịt, máu mủ thân yêu. Anh lừa dối
em. Vợ lừa dối chồng. Cha mẹ lừa dối con cái. Cháu chắt lừa dối ông bà.
Lừa dối là phương tiện duy nhất để tồn tại trong xã hội Cộng Sản.
Tại Việt Nam cũng
thế. Vở kịch tuyên truyền mà Đảng đã đóng suốt mấy chục năm qua làm thui
chột nhận thức của nhiều thế hệ Việt Nam. Từ chuyện Lê Văn Tám lấy thân
mình làm đuốc đến chuyện Tôn Đức Thắng kéo cờ Cộng sản trên Hắc Hải đều
là những chuyện hoang đường nhưng nghe riết cũng quen tai, nghe riết
nên tin là chuyện thật.
Có một thời không
ít người dân miền bắc còn tin rằng những khẩu CKC, AK47 của mấy chị dân
quân đã từng bắn hạ những F-4 Fantom, F-111 của Mỹ. Theo lời kể của cựu
Thiếu Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên
Xô tại Việt Nam trong một bài báo trên tờ Pravda nhân dịp đánh dấu 30
năm cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, Liên Xô đã gởi nguyên một trung đoàn
phòng không với đầy đủ vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13
người lính phòng không Liên Xô đã chết trên đất bắc. Những chiếc máy
bay Mỹ đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu
cơ F4 Fantom của Thượng Nghị Sĩ John McCain (đúng ra là A-4 Skyhawk theo
tiểu sử của Thượng Nghị Sĩ John McCain), cũng từ hỏa tiễn của các đơn
vị Hồng quân Liên Xô chứ không phải từ "Bộ đội phòng không anh hùng”,
nói chi là các chị dân quân núp bên bờ ruộng như trong mấy bức ảnh tuyên
truyền của đảng.
Cũng theo lời kể
của cựu trung tướng Liên Xô Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng phòng
không Liên Xô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970, Việt Nam chỉ là một phòng
thí nghiệm cho vũ khí Liên Xô. Họ muốn đích thân xử dụng vũ khí để chuẩn
bị cho việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Xô trong
trường hợp có chiến tranh giữa hai khối sau này. Cuộc chiến đã tàn, chế
độ cũng đã tan, ngọn đèn đời sắp tắt, những người lính già Nga chẳng bị
áp lực nào để phải nói dối, để tuyên truyền, để bảo vệ cho đảng, hay cho
cả chính mình. Họ chỉ còn kỷ niệm, và kỷ niệm của tuổi về chiều thường
thành thật, trong sáng như những ngày mới lớn.
Bên cạnh Liên-Xô,
vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí, đã có 16 sư đoàn
với 170 ngàn quân Trung cộng tại miền Bắc Việt Nam để yểm trợ cho đảng
Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng đai an ninh của Trung
cộng. Tội ác của đảng Cộng sản Trung cộng đối với dân tộc Việt Nam, từ
các tư tưởng độc hại đến võ khí giết người, từ cải cách ruộng đất đến
đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ chiến tranh biên giới đến trận chiến Lão
Sơn, không thể viết hết trong một bài, trong một cuốn sách mà phải xây
dựng một trung tâm dữ kiện.
Máu đổ, thây rơi,
nhà tan, cửa nát ở Hà Nội, Hải Phòng là điều có thật. Những mất mát đau
thương vô cùng to lớn của đồng bào miền Bắc đã chịu đựng dưới đạn bom Mỹ
là điều có thật. Căm thù, phẫn uất vì thế là những phản ứng tự nhiên.
Tuy nhiên không phải chỉ vì đế quốc Mỹ đã đơn phương xâm lược Việt Nam
như các thế hệ sinh viên học sinh đã và đang được dạy. Hơn ba mươi năm
là một thời gian đủ dài để đồng bào miền bắc, các thế hệ trẻ miền bắc có
gia đình chịu đựng đau thương bất hạnh trong chiến tranh, nhìn lại cuộc
chiến một cách khách quan và so sánh với thực tế đất nước để qua đó
biết rõ những ai và học thuyết nào chính là nguyên nhân của chiến tranh,
độc tài và chậm tiến hôm nay.
Đảng Cộng sản có
thể tùy thích tạo ra hàng trăm đảng viên cỡ Lê Văn Tám, Tôn Đức Thắng.
Đó là chuyện nội bộ của đảng nhưng họ không có quyền biến Côn Đảo thành
tài sản riêng của đảng, không có quyền mê hoặc của các thế hệ trẻ Việt
Nam bằng các mẫu chuyện hoang đường kiểu Lê Văn Tám như bộ máy tuyên
truyền Liên Xô đã từng tô điểm lên một cậu bé nhà nông Pavlik Morozov
bất hiếu trước đây. Côn Đảo cũng không phải là đất hương hỏa của Marx,
Lenin để lại cho đảng Cộng sản Việt Nam mà là đất thiêng của cách mạng
Việt Nam nơi nhiều thế hệ đã lấy xương thịt mình làm phân bón cho mầm
xanh tương lai dân tộc.
Trong nghĩa địa
Hàng Dương, bên chiếc cầu đá phía bên phải dinh chúa đảo, trước những xà
lim chật hẹp, một ngày không xa, các thế hệ Việt Nam sẽ đến đó, không
phải để nghe kể công, nghe tuyên truyền mà đến để im lặng cúi đầu tưởng
niệm các anh hùng dân tộc.
Họ là ai? Họ là
những đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội, Phong trào Đông Du, Phong trào
Duy Tân, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc
dân Đảng, Đại Việt Dân chính, Dân Xã Đảng, Đảng Lập hiến, Đại Việt Duy
dân và nhiều tổ chức, phong trào không Cộng sản khác.
Họ là ai? Họ là
tín đồ các tôn giáo, nhất là Cao Đài và Hòa Hảo, hai tôn giáo được ra
đời tại miền Nam, có truyền thống kiên quyết chống cả thực dân lẫn Cộng
sản.
Nếu họ đã từng là
đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết vài lần
trên diễn đàn này, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người
Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến
đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa
Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở,
sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi
các đặc tính địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ
sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở
Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An
Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái
chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Ông bà chúng ta có
súng dùng súng, có gậy dùng gậy, và trong nhiều trường hợp chỉ là những
bàn tay không gầy yếu.
Những người Việt
yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân
tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất phác , nhưng công nhân
đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc
lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao
biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc
đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay.
Tôi tin, phần lớn
những người yêu nước đã chết trong giấc mơ về một Việt Nam hòa bình, độc
lập chứ không phải trong giấc mơ về một xã hội Cộng sản đại đồng. Người
yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một
chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế
quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ
đánh giá, dân tộc sẽ ghi ơn họ một cách công bằng.
Tôi tin, cuộc
chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc đấu
tranh đầy gian khổ nhưng anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên
chống lại một thực dân tàn bạo. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối
thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đã bị bắt, tra
tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Ngoài một Nguyễn An Ninh để lại thịt
xương, một Trần Cao Vân, một Phan Chu Trinh để lại những bài thơ viết
bằng máu và mồ hôi trong những ngày đập đá, còn có hàng ngàn, hàng vạn
đồng bào đã chết trong âm thầm, không để lại họ tên.
Nhưng cho dù họ có để lại đủ họ tên đi nữa, các thế hệ Việt Nam sau 1975
cũng không có quyền biết đến họ, không có cơ hội để cám ơn họ, để thắp
một nén hương, và phần mộ họ một mai có thể sẽ bị san bằng theo mưa
nắng. Đảng Cộng sản không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà
còn cố tình nhuộm đỏ cả lịch sử.
Côn Đảo ngày nay
gắn liền với tên tuổi của các đảng viên Cộng sản trung ương Tôn Đức
Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh,
Lê Quang Vịnh v.v. Các em học sinh đang sắp hàng chờ vào xem những xà
lim kia làm sao biết được, với số đảng viên vỏn vẹn 5 ngàn vào mùa thu
1945, đảng Cộng Sản, dù bị bỏ tù và chết gấp mười lần trong hai cuộc
chiến, cũng không thể bằng với con số khoảng 200 ngàn người Việt Nam yêu
nước đã từng ở tù Côn Đảo theo nhiều nguồn ước lượng.
Các em cũng không
biết rằng hàng trăm lãnh tụ cách mạng không Cộng sản mà đức độ và tài
năng bao trùm nhiều lãnh vực như Đức Huỳnh Giáo Chủ, Trương Tử Anh, Phạm
Quỳnh, Khái Hưng, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn
Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp v.v., đã không ở tù hay chết ngoài Côn Đảo chỉ
vì họ bị Cộng sản thủ tiêu ngay tại đất liền.
Khác với đảng Cộng
sản được thành lập từ nước ngoài theo chỉ thị của quốc tế Cộng sản và
nhiều đảng viên được đưa sang Trung cộng, Liên Xô huấn luyện một cách
bài bản nhằm thực hiện các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn của trung
ương đảng đề ra, phần lớn đảng phái không Cộng sản đã sinh ra và lớn lên
ngay trong lòng dân tộc với tất cả khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt. Họ
không chỉ bị chết dưới lưỡi đao phong kiến, máy chém thực dân mà còn
chết trong bàn tay của những người cùng máu mủ với mình.
Đọc lại diễn tiến
của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, quá trình thành lập các đảng phái không
Cộng sản và lắng nghe các nhà cách mạng trải lòng qua thơ văn đẫm đầy
máu lệ, mới cảm thấy lòng yêu nước của thế hệ cha ông thật vô bờ bến.
Bằng hành trang
duy nhất trên vai là lòng yêu nước, các nhà cách mạng không Cộng sản dấn
thân vào con đường giải phóng dân tộc trên chuyến xe chạy bằng máu của
chính mình.
Chiều mùa hè năm
đó, lần đầu tiên trong đời tôi xúc động đứng im lặng trước anh linh của
những anh hùng đã ngã xuống cho độc lập tự do thật sự của dân tộc. Xương
thịt của những người đã hy sinh từ phong trào kháng thuế miền Trung, Hà
Thành đầu độc, khởi nghĩa Duy Tân, Thái Nguyên, Yên Bái hẳn đã hòa tan
vào lòng đất mẹ nhưng anh linh họ vẫn là ngọn đuốc soi sáng giấc mơ Việt
Nam độc lập, tự chủ của dân tộc.
Như tôi có lần đã
viết. Giấc của họ là giấc mơ của những người để lưng trần, tóc cắt ngắn,
đóng khố che thân, dắt bầy con, vượt bao nhiêu núi rừng ghềnh thác
trong cuộc nam tiến đầy gian nan nhưng vô cùng hiển hách, từ dọc bờ
Dương Tử di dân xuống lưu vực sông Hồng cách đây gần 50 thế kỷ. Trong
lúc bao nhiêu bộ tộc Bách Việt khác đã hoàn toàn bị tiêu diệt hay đồng
hóa vào những tỉnh, những huyện như Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân
Nam, Phúc Kiến của Trung cộng ngày nay, giòng giống Lạc Việt qua bao độ
thăng trầm, vẫn tồn tại và trưởng thành như một nước Việt Nam.
Giấc mơ của họ là
giấc mơ của những người đã tạo nên nền văn minh Việt Nam rất sớm. Nơi
đó, từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên, tổ tiên chúng ta đã biết trồng
cây ăn trái, biết làm đồ gốm, biết đẽo đá thành những lưỡi cuốc nhọn,
biết đắp đất ngăn bờ để đưa nước sông vào ruộng. Tổ tiên chúng ta đã
biết xây dựng các cơ xấu xã hội, lấy thôn làng làm căn bản, lấy nông
nghiệp làm nền tảng kinh tế, lấy tình nghĩa đồng bào làm sức mạnh, lấy
nguồn gốc tổ tiên (một mẹ trăm con, chung cùng bọc trứng) làm nơi nương
tựa tinh thần. Những hình ảnh thân thương quen thuộc của cây đa, bến
nước, sân đình gắn liền trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Những
chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ được chạm trổ tinh vi đánh dấu một
thời đại vàng son trong tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Chính
tinh thần văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc thành sức mạnh dân tộc,
để các thế kỷ sau đó, đủ sức đối kháng với sự xâm lăng thô bạo của các
nguồn văn hóa mang ý đồ đồng hóa phát xuất từ phương Bắc.
Giấc mơ của họ là
giấc mơ của một dân tộc hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán,
nhà Ngô, nhà Đường, nhà Minh qua bốn lần bắc thuộc với bao nhiêu cực
hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi,
trầm hương, châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ
được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất.
Đất nước chúng ta
đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng chúng ta hãnh diện nói
lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc. Hình ảnh những chiếc
búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào
được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan
không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc,
bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên đã
đổ xuống trước các cuộc xâm lăng của các triều đại Bắc phương khác.
Lịch sử bao giờ
cũng mang tính kế tục nhưng trước hết là lịch sử của thời đại. Mỗi thế
hệ có một trách nhiệm để hoàn thành những trách nhiệm mà lịch sử giao
phó cho thời đại của họ nhưng dù không hoàn thành, ngọn đuốc lịch sử vẫn
phải được chuyển sang bàn tay thế hệ khác. Giấc mơ về Việt Nam tự do,
dân chủ và giàu mạnh dù sớm hay muộn sẽ phải thành hiện thực.
Thời gian gần đây,
tôi có dịp đọc nhiều bài viết từ những tấm lòng đang băn khoăn vì đất
nước. Phần lớn bắt đầu bằng nhóm chữ "chưa bao giờ …như hôm nay”. Chưa
bao giờ con người Việt Nam bị khinh thường như hôm nay. Chưa bao giờ
lãnh thổ Việt Nam bị chiếm đoạt trắng trợn như hôm nay. Chưa bao giờ chủ
quyền đất nước bị đe dọa như hôm nay. Chưa bao giờ tài nguyên thiên
nhiên bị thất thoát như hôm nay. Tất cả đều đúng cả. Tôi chỉ muốn thêm
vào một "chưa bao giờ” nữa, đó là, chưa bao giờ ranh giới giữa dân tộc
và phản dân tộc rõ ràng như hôm nay. Biên giới đó rõ ràng đến mức một
người Việt Nam có thể chọn lựa đứng về phía chính nghĩa, phía dân tộc mà
không phải lo lầm lỡ về sau.
Giới lãnh đạo đảng
Cộng sản Việt Nam đã chọn một con đường riêng của họ. Con đường đảng
chọn cũng rất rõ ràng: phát triển đất nước theo định hướng Trung cộng và
cùng lúc bằng mọi giá duy trì chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam.
Bộ chính trị trung
ương đảng Cộng sản Việt Nam không phải là những người không biết suy
nghĩ, không thấy đúng, thấy sai và thậm chí có rất nhiều cơ hội để sửa
sai nhưng quyền lợi cá nhân, phe nhóm và đảng đã che khuất sự sống còn
và tương lai đất nước.
Nhân dân Việt Nam
chịu đựng quá nhiều rồi, nhượng bộ quá nhiều rồi, lùi bước quá nhiều
rồi. Từ xâm lăng Hoàng Sa đến chiến tranh biên giới, các trận đánh khu
vực Lão Sơn, lấn chiếm Trường Sa, bắn chết ngư dân Thanh Hóa và hôm nay
Bauxite. Chỉ một thời gian ngắn thôi mà nhìn ra biển, nhìn lên núi, nhìn
xuống phố, nhìn qua sông, đâu đâu cũng thấy hàng Trung cộng, đất Trung
cộng, đảo Trung cộng, người Trung cộng, vài chục năm nữa đất nước sẽ ra
sao?
Tại sao Trung cộng
không bắn thủng tàu, không ăn cướp tài sản, đất đai của Thái Lan,
Philippines hay ngay cả của đàn em Bắc Hàn một cách công khai, lộ liễu
như họ đã và đang làm đối với Việt Nam? Một người có ý thức nào cũng
biết, đơn giản bởi vì giới lãnh đạo Cộng sản Trung cộng sống trong gan
ruột của giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam những kẻ không còn một
chọn lựa nào khác ngoài việc núp dưới chiếc dù Trung cộng.
Như tôi có lần
mách nước cho bà con ngư dân trong bài "Ai giết 9 ngư dân Thanh Hóa”,
cách hay nhất để khỏi bị hải quân Trung cộng bắn chết là khi tàu đánh cá
vừa ra khỏi cửa biển thì xin các bác làm ơn hạ cái lá cờ gọi là "cờ tổ
quốc” xuống dùm. Nếu phải treo thì treo đại một lá cờ Phi, cờ Thái Lan,
cờ Nhật lên mũi tàu. Nói ra thì cho là phản động nhưng tin tôi đi, làm
như thế bà con ngư dân mới hy vọng còn đường trở về với vợ con.
Thời điểm 1958,
Pháp đã rút đi và Mỹ thì chưa đến mà Phạm Văn Đồng, còn có thể thay mặt
cho 11 ủy viên bộ chính tri, hạ bút ký một văn kiện nhục nhã như thế thì
với hoàn cảnh phe Cộng sản chỉ còn lại năm anh em trên một chiếc xe
tang, trong đó có đến bốn em đang lâm cảnh hàn vi đói khát, thì chuyện
gì mà họ không dám làm. Lê Khả Phiêu, trong giai đoạn tìm về chủ cũ năm
1991, cũng có thể đã ký những văn bản tương tự như văn bản của Phạm Văn
Đồng, khác chăng, "đồng chí Phạm Văn Đồng bị lộ” và "đồng chí Lê Khả
Phiêu chưa bị lộ” mà thôi.
Người
Do Thái nguyền rủa Hitler, nhân loại kết án Hitler, nhưng nhân dân Đức
trước khi có thái độ tương tự, họ phải biết trách các thế hệ Đức trong
thập niên 30 của thế kỷ 20, bởi vì chính dân Đức thời đó bằng con đường
bầu cử hợp pháp đã đồng ý đặt mình dưới sự lãnh đạo của Hitler và đảng
Quốc Xã. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ bầu đảng Cộng sản để lãnh đạo
nhưng chắc chắn cũng sẽ phải trả lời cho các thế hệ mai sau về thái độ
thờ ơ, thỏa hiệp, yếu hèn của các thế hệ hôm nay trước tình trạng băng
hoại đạo đức, lạc hậu kinh tế, thất thoát tài nguyên, mất mát lãnh thổ
và suy yếu chủ quyền đất nước.
Trần Trung Đạo
|