Câu chuyện Hồ Cẩm Đào được đón tiếp nồng hậu và tắm biển sảng khoái tại
Đà Nẵng trước khi ra Hà Nội đã làm cho các nhà bình luận đưa ra nhiều
giả thiết, không ít những ý kiến mỉa mai, chỉ trích thái độ kẻ cả, trịch
thượng của Hồ Cẩm Đào đối với lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Phép thử cho vị hoàng đế tương lai
Tập Cận Bình, được xem là người kế nhiệm Hồ Cẩm Đào trong ngôi "Hoàng
đế”, hay chính xác hơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc
tập đoàn khổng lồ có tên… "Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”, theo cách nói
của chuyên gia về Trung quốc, cựu Giám đốc "Financial Times” tại Bắc
Kinh, Richard McGregor.
Chuyến công du tới Việt Nam của Tập Cận Bình trong thời gian 20 -22
tháng 12/2011 được dư luận quan tâm đặc biệt, không chỉ người Việt mà cả
cộng đồng quốc tế.
Với bài "Kiểm tra dũng khí của Tập tại Việt Nam” trên tờ "South China
Morning Post” hôm 14/12/2011, Teddy Ng. và Greg Torode nhận định đây là
nhiệm vụ khó khăn, và tin rằng ông Tập sẽ phải nhảy vào các mối tranh
chấp trên biển Đông như một phép thử quan trọng cho sự tiến tới vai trò
chủ tịch dự kiến vào đầu năm 2013. [1]
Phép thử, theo "South China Morning Post”, tương tự như cách Hồ Cẩm Đào
trước khi nhậm chức chủ tịch, trong tháng 11 năm 2002 đã được giao xử lý
vụ va chạm giữa máy bay do thám của Hoa Kỳ và máy bay chiến đấu Trung
Quốc gần đảo Hải Nam.
Hãng Reuters ngày 16/12 cho rằng, chuyến thăm Việt Nam của Tập là "cuộc
tiếp xúc với một trong những mối quan hệ khu vực khó khăn nhất của Bắc
Kinh” và "có thể là một thử nghiệm dành cho ông Tập trong các tranh chấp
mưng mủ trên ở Biển Đông”. [2]
"Trung Quốc và Việt Nam không những chia sẻ một lịch sử huynh đệ cộng
sản chống lại xâm lược nước ngoài, mà còn là lịch sử của những căng
thẳng về chủ quyền lãnh thổ và sự lo ngại của Việt Nam trước một nước
láng giềng lớn hơn nhiều. Họ cũng đã có một cuộc chiến tranh ngắn vào
năm 1979, khi quân đội Trung Quốc vượt biên giới tấn công Việt Nam” –
Hãng Reuters viết.
Đề cập tới chuyến thăm Hoa Kỳ của Tập Cận Bình vào đầu năm 2012, các mâu
thuẫn giữa Việt Nam với Trung Quốc, cũng như với Brunei, Malaysia và
Đài Loan trên Biển Đông, nơi có nguồn dầu mỏ và khí đốt phong phú và là
tuyến đường biển quan trọng, hãng Reuters đưa ra sự việc trong tháng 5
và tháng 6 vừa rồi, Việt Nam cáo buộc tàu Trung Quốc quấy rối tàu Việt
Nam trong vùng kinh tế độc quyền của Việt Nam, trong khi Trung Quốc phủ
nhận rằng tàu của họ không làm bất cứ điều gì sai. Tuy nhiên, vào tháng
10 Trung Quốc và Việt Nam đã ký kết một thỏa thuận cùng tìm kiếm dầu
trên vùng biển có tranh chấp.
Tờ "Wall Street Journal” trong ngày 16/12 cũng nhận định tương tự rằng,
Tập Cận Bình "sẽ phải đối mặt với một trong các bài kiểm tra ngoại giao
quan trọng, nhạy bén đầu tiên của mình trong chuyến công du tuần tới tại
Việt Nam, quốc gia có vẻ như là đang vờ quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ
do tranh chấp lãnh thổ ngày càng căng thẳng với Bắc Kinh”. [3]
Còn theo BBC, "một chuyên gia về quan hệ Việt-Trung ở trong nước, đề
nghị giấu tên, nói rằng chuyến đi của ông Phó chủ tịch Trung Quốc có thể
liên quan tới các động thái gần đây trong bang giao quốc tế. Thái độ
mạnh bạo, thậm chí hung hăng của Bắc Kinh đã bị nhiều quốc gia chỉ
trích, bởi vậy ông Tập Cận Bình và các lãnh đạo Trung Quốc có thể sẽ có
các chuyến công du để xoa dịu dư luận và hàn gắn quan hệ". [4]
Thế nhưng không thấy báo chí thế giới đưa ra một khó khăn khác, đòi hỏi
Tập Cận Bình phải ứng phó và khôn khéo thoả thuận với lãnh đạo ĐCSVN:
nội tình chính trị xã hội đang nóng của Việt Nam.
Vòng kim cô
Từ năm 1991, sau khi hệ thống cộng sản tại Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Hà
Nội đã buộc phải bình thường hoá quan hệ toàn diện với Bắc Kinh, xem
Trung Quốc là chỗ dựa vững chắc để duy trì ý thức hệ cộng sản. Trong mối
bang giao này Hà Nội nằm ở vị thế yếu kém, không những với thân phận
của một nước nhỏ, đàn em "môi hở răng lạnh" chịu nhiều ân nghĩa một
thời, mà còn là thân phận của kẻ sắp chết đuối vớ được cọc, cần được
giúp đỡ để tồn tại và bảo đảm độc quyền cai trị.
Chính vì thế, đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng tỏ ra nhu nhược trước
Trung Quốc mà bắt đầu cho sự xói mòn chủ quyền và bị lệ thuộc bi kịch
trước mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh - là Hiệp định biên giới ký kết
giữa hai nước năm 1999, trong đó phía Việt Nam đã cắt cho Trung Quốc
hàng trăm cây số vuông đất liền dọc biên giới và hàng ngàn cây số vuông
biển.
Mặc dù Tổng bí thư ĐCSVN Lê Khả Phiêu lúc bấy giờ bị chỉ trích dữ dội về
sự nhượng bộ thái quá với Trung Quốc và đã phải nhường chỗ cho Nông Đức
Mạnh, nhưng mối tình "già nhân ngãi, non vợ chồng" giữa ĐCSVN và Trung
Quốc không những không phai nhạt, mà ngày một lộ liễu hơn, đôi khi bất
chấp dư luận. Từ năm 2006, khi ông Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức Thủ tướng
thì Việt Nam dường như lọt hẳn vào trận đồ ma quái của một cuộc xâm lược
mềm của Đại Hán, chưa biết bao giờ mới có thể thoát ra.
Vị trí chính trị cộng với đồng tiền chảy vào túi riêng từ các công trình
hợp tác khổng lồ của hai bên đã đẩy tập đoàn lãnh đạo Việt Nam vào thế
bị Bắc Kinh khống chế, vòng kim cô có thể xiết bất kỳ lúc nào khi cần.
Không dưới một lần tôi đã nói tới những chất liệu tạo nên vòng kim cô ác
nghiệt: Người Trung Quốc đang nắm trong tay gần 300 ngàn hécta rừng đầu
nguồn của Việt Nam, theo cái gọi là thuê 50 năm, tha hồ thao túng; đã
và đang thực hiện hơn 90% tổng thầu EPC các đề án đầu tư công quan trọng
nhất của Việt Nam, buộc Việt Nam lệ thuộc lâu dài vào công nghệ lạc hậu
và phụ tùng thay thế trong vài thập niên tới, trong đó có khai thác
bauxite Tây Nguyên với nhiều rủi ro về môi sinh và an ninh trên vùng
chiến lược; đang có trong tay một thị trường xuất khẩu gần 20 tỷ USD,
tiêu thụ dễ dãi đủ mọi chủng loại hàng hoá phẩm chất kém, độc hại, ăn
cắp bản quyền, chưa kể hàng lậu; đang có hàng chục ngàn công nhân tự do
lao động khắp ba miền...
Nhưng, đây cũng là sai lầm lớn nhất của ĐCSVN kể từ hai thập niên gần
đây và vì nó mà niềm tin của xã hội đối với họ bị tuột dốc nghiêm trọng.
Mặc dù phải trả giá đắt cho nợ nước ngoài tăng vọt, môi trường ô nhiễm,
mâu thuẫn xã hội bùng nổ, tham nhũng thành quốc nạn, nền tảng đạo đức bị
huỷ hoại... nhưng những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế đã làm hài
lòng một bộ phận lớn dân chúng vốn trải qua quá nhiều thiếu thốn, gian
khổ trong thời kỳ chiến tranh và thời bao cấp. Tâm lý mặc nhiên chấp
nhận "sống chung với lũ” trở thành mảnh đất màu mỡ sinh sôi chủ nghĩa cơ
hội và chạy theo đồng tiền. Người ta bàng quan với các vấn đề chính trị
diễn ra trên đất nước, tinh thần phản kháng trước cái ác bị triệt tiêu
dần.
Thế nhưng, truyền thống yêu nước và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm
là thiêng liêng, gắn bó hữu cơ máu thịt với mỗi người Việt. Lãnh đạo
ĐCSVN quá cao ngạo, coi thường dân chúng nên không tiên liệu hết. Họ
tưởng rằng, cả dân tộc đã bị thuần hoá trong văn hoá sợ hãi và nô lệ của
hệ thống công an trị. Nhưng họ đã lầm!
Khi sự phản bội của những người lãnh đạo đất nước bị lộ diện, lòng yêu
nước ngay lập tức được đánh thức và trỗi dậy một cách tự nhiên, lan toả
nhanh chóng trong mọi tầng lớp xã hội, từ các em học sinh nhỏ tới cụ
già, từ dân thường đến các vị trí thức lớn và các lão tướng gắn bó với
chế độ…
Những cuộc biểu tình trong 11 chủ nhật liên tiếp với sự tham gia của tất
cả các thành phần trên trong mùa thu 2011 tại Hà Nội và Sài Gòn chứng
minh rất rõ, tuy thực chất mới chỉ là đợt sóng nhỏ đầu tiên tự phát,
mang sứ mệnh cảnh báo và biểu tượng. Sóng ngầm đang sôi động, thôi thúc
và một khi có "nhân hoà địa lợi” chắc chắn sẽ trở thành bão tố.
Lãnh đạo ĐCSVN bắt đầu ý thức được hậu quả khó lường từ việc làm của
mình. Để ngăn chặn sự tiến triển có thể vượt tầm kiểm soát, họ nỗ lực
dùng bộ máy công an đàn áp tàn bạo và hèn hạ. Mọi sự hội tụ, tích hợp
lực lượng quần chúng dù nhỏ nhất, có khi chỉ là buổi gặp mặt dự sinh
nhật, ăn sáng, uống càphê, hay chiếu một bộ phim yêu nước, đều bị kiểm
soát, phá rối. Họ bất chấp luân thường, đạo lý, sử dụng tuỳ tiện những
nghị định lạc hậu, vi hiến để bắt giữ người yêu nước. Việc giam giữ
những thành viên biểu tình trong trại phục hồi nhân phẩm hay cưỡng bức
chị Bùi Thị Minh Hằng vào trại giáo dục chứng tỏ tâm lý sợ hãi, lúng
túng của chế độ trước nguy cơ quyền lực bị đe doạ.
Tuy nhiên, ĐCSVN càng mạnh tay đàn áp nhân dân và dấn sâu vào con đường
bán rẻ lợi ích của đất nước để cầu vinh, thì càng làm tăng thêm sự bất
mãn và chống đối của dân chúng, trong đó có cả những người đảng viên
cộng sản.
Những kẻ đi đêm
Thực quyền trên sân khấu chính trị Việt Nam hiện nay thuộc về Nguyễn Tấn
Dũng - Nguyễn Chí Vịnh, những người nắm trong tay lực lượng an ninh,
tình báo của công an và quân đội, có thể khuynh loát, bắt làm con tin
bất cứ ai tay lỡ nhúng chàm. Vì thế, tất cả những gì diễn ra trên đất
Việt Nam, bao gồm cả những hoạt động trong khuôn khổ chuyến công du của
Tập Cận Bình, đều nằm dưới ống kính quan sát của hai người này.
Mở đầu chương trình mừng đón "Hoàng đế” tương lai của Bắc triều trước
khi qua Việt Nam là màn "Cầu truyền hình giao lưu Việt Trung: Láng giềng
gần” được VTV1 phối hợp với TV tỉnh Quảng Tây Trung Quốc vào tối ngày
14/12.
Tiếp theo, để không xảy ra điều gì mang tính khi quân, cuộc hội thảo tại
thành phố Sài Gòn về Biển Đông do Liên đoàn Luật sư dự định tổ chức vào
ngày 19/12 tiếp tục bị buộc đình hoãn (sau khi đã bị hoãn một lần trước
đó).
Những hành vi biểu hiện lòng yêu nước, phản đối Trung Quốc xâm lấn chủ
quyền trước và trong những ngày Tập Cận Bình qua Việt Nam tất nhiên sẽ
bị vô hiệu hoá một cách tàn nhẫn. Tướng Nguyễn Chí Vịnh tại Bắc Kinh đã
chẳng cam kết "định hướng dư luận” Việt Nam và "xử lý tụ tập đông người”
là gì!
Sẵn sàng xem quần chúng là những con bò, ĐCSVN không bao giờ phải minh
bạch thông tin khi thấy bất lợi cho sự tồn vong. Trong bóng tối của
truyền thống này, và từ những thứ ồn ào làm vui lòng đàn anh láng giềng
sắp qua, cho thấy những con ma đêm sẽ bắt tay nhau trong chuyến công du
của Tập Cận Bình.
Đương nhiên sẽ có một tuyên bố chung rất chung chung làm dịu lại hình
ảnh bá quyền hung hăng của Trung Quốc. Với dư luận thế giới, quan hệ
Việt-Trung sẽ được mô tả như chiếc cầu đối thoại quan trọng trong việc
hợp tác đa phương, gìn giữ hoà bình và ổn định của khu vực châu Á-Thái
bình Dương. Với dư luận Việt Nam, hai bên khẳng định tôn trọng quan điểm
khác biệt, nhưng cam kết sẽ đối thoại hoà bình trong các vấn đề tranh
chấp chủ quyền trên cơ sở làng giềng 4 tốt và sự hợp tác phát triển kinh
tế giữa hai đảng và nhà nước, v.v...
Mặc khác, theo tôi, sẽ có thoả thuận ngầm, ủng hộ những màn trình diễn
mị dân với mục đích che đậy âm mưu. Một bên ông Nguyễn Tấn Dũng có thể
huyênh hoang tuyên bố về chủ quyền Hoàng - Trường Sa thậm chí mạnh mẽ
hơn cả tuyên bố trong ngày 25/11. Một bên tướng Lã Viện có thể thoải mái
hô khẩu hiệu "chủ đánh mới hoà” hù doạ Việt Nam hơn cả lời của ông ta
trên tờ "Global Times” hôm 13/12. Một bên Trung Quốc khi thấy thích vẫn
tiếp tục gây hấn, bắt bớ ngư dân Việt Nam trên lãnh hải Việt Nam mà
Trung Quốc cho là của mình. Một bên Phát ngôn viên Lương Thanh Nghị tha
hồ họp báo, phê phán. Một bên Trung Quốc dơ nanh vuốt, biểu dương sức
mạnh quân sự trên biển. Một bên Việt Nam mặc sức thông tin trang bị tàu
ngầm, tập trận bằng bắn đạt thật, tên lửa thật, hay hợp tác quân sự với
Hoa Kỳ...
Tóm lại, trong bối cảnh đã phân tích, mối quan hệ "vừa là đồng chí vừa
là anh em” chắc chắn sẽ củng cố thêm và ông Tập Cận Bình có thể yên tâm
hài lòng với chuyến đi quan trọng này. Mặt khác lãnh đạo ĐCSVN sẽ cẩn
trọng, tránh những sơ suất hớ hênh như trong quá khứ, để không trút thêm
dầu vào ngọn lửa nổi giận của quần chúng. Tức là, về đại cuộc giữa hai
nước sẽ không có gì thay đổi, nhưng chiến thuật ứng xử của cả hai bên sẽ
khôn ngoan và tinh vi hơn.
Kết luận
Tôi đưa ra những kịch bản trên đây và tin rằng mình không sai.
Trên bàn cờ Việt Nam hôm nay chỉ có hai tay chơi không nhân nhượng, một kẻ thua và một người thắng.
Hiện tại thì ông Nguyễn Tấn Dũng ở thế thượng phong. Người đang lâm vào thế thua khó gỡ là dân tộc Việt Nam.
Liệu có khi nào thế cờ đột nhiên bị đảo ngược?
© 2011 Lê Diễn Đức – RFA Blog
------------------------------------------------------------