15.9.2009: Ngày đau thương của chuyên viên và trí thức Việt Nam!
Ngày ngạo nghễ của bọn tham quan, độc tài và thần phục Bắc kinh!
Âu Dương Thệ
(Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:
www.dcpt.org hay www.dcvapt.net)
Viện Nghiên cứu Phát triển vừa ra Tuyên bố tự ngưng hoạt
động từ ngày 15.9.2009. Đây cũng chính là ngày Quyết định 97 của TT Nguyễn Tấn
Dũng bắt đầu có hiệu lực. Quyết định 97 đã được ban hành từ ngày 24.7.09, chỉ
ít ngày sau Hội nghị Trung ương 10 chuẩn bị cho Đại hội 11 của ĐCSVN vào đầu
tháng 1.2011. (Nguyên văn Quyết định này xem bài „Bịt miệng các chuyên
viên và nhân sĩ để chuẩn bị Đại hội 11: Nguyễn Tấn Dũng không chỉ dối trá mà
còn độc tài“ của cùng tác giả, trong phần Thời sự trang www.dcpt.org)
Ý đồ chính của Quyết định này là tìm cách ngăn chặn những tiếng nói chân thành
nhưng rất thắng thắn về những vấn đề vô cùng bức xúc của đất nước trước ĐH 11
sắp tới. Thật vậy, Điều 2 Khoản 2 của Quyết định đã ra lệnh cấm các chuyên
viên, các nhà khoa học nói riêng, và các công dân VN nói chung, „không được
công bố công khai“ các „ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước“. Nguyên văn Khoản 2 Điều 2 của Quyết định 97:
„Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được
công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa
học và công nghệ.“
Như vậy là bọn tham quan, độc tài và thần phục Bắc kinh đã ra lệnh công khai
bịt miệng các chuyên viên, các nhà khoa học, học giả và trí thức VN. Trong
những năm gần đây nhiều người trong tầng lớp này rất am tường và quan tâm tới
tình hình đất nước, cuộc sống của nhân dân và tương lai của dân tộc. Họ đã can
đảm và thẳng thắn đưa ra những phản biện gởi trực tiếp cho nhóm cầm đầu chế độ.
Nhưng tất cả đều bị vất vào sọt rác. Vì sự thất hứa của nhóm cầm đầu chế độ nên
nhiều chuyên viên, khoa học gia và học giả đã phản biện công khai trên các
trang điện tử hay trong các cuộc họp công cộng về tệ nạn tham nhũng ngày càng
trâng tráo của các tham quan từ trung ương cho tới các địa phương, về sự ươn
hèn và cúi đầu rất nhục nhã của nhóm cầm đầu độc tài bảo thủ CSVN trước những
đòi hỏi ngày càng ngang ngược và trịch thượng của bá quyền Bắc kính trong việc
lấn đất, lấn biển, chiếm đoạt tài nguyên của VN.
Sự biểu bộ lòng yêu nước và tinh thần tự trọng dân tộc của các chuyên viên,
khoa học gia và học giả đã đánh động lương tâm dân tộc, ngày càng tập hợp đông
đảo nhân dân, trở thành một cái gai, một hòn đá tảng cản trở bọn tham quan đang
trên đường tìm cách giữ ghế tranh phần trong Đại hội 11 sắp tới. Do đó, để bảo
vệ an ninh bản thân và quyền lợi phe nhóm, nên họ đã ban hành Quyết định 97 vào
đúng thời điểm cần thiết.
Viện Nghiên cứu Phát triển là một tổ chức tư độc lập của nhiều chuyên viên và
trí thức trong nước được thành lập và hoạt động từ hai năm qua. Trọng tâm hoạt
động của Viện là theo dõi, phân tích các chính sách của chế độ XHCN dưới sự cầm
đầu của ĐCSVN, đồng thời đưa ra những phản biện nhằm mục đích cải thiện và thúc
đẩy đất nước phát triển và dân chủ. Những việc làm của Viện Nghiên cứu Phát
triển hoàn toàn công khai và minh bạch, phù hợp với lời kêu gọi trong các
văn kiện chính thức của ĐCSVN, cũng như Hiến pháp 1992 của Nhà nước.
Việc ngưng hoạt động của Viện này được coi là một đau thương chung cho những
người trí thức VN ở trong và ngoài nước biết tự trọng và quyết dấn thân đấu
tranh cho một nước VN dân chủ và cường thịnh. Nó cũng là một cái buồn chung cho
những người dân chủ và toàn thể nhân dân VN. Ngày 15.9 2009 báo động những hiểm
họa của đất nước trước nguy cơ tiếp tục độc quyền để tham nhũng, bên trong thì
đàn áp tàn bạo nhân dân, nhưng lại ươn hèn cúi đầu thần phục Bắc kinh của nhóm
cầm đầu độc tài bảo thủ CSVN!
Dưới đây là nguyên văn Tuyên bố của Viện Nghiên cứu Phát triển và các văn kiện
liên hệ tố cáo và phản đối những việc làm cực kì sai trái và phản dân chủ của
nhóm cầm đầu chế độ độc tài toàn trị hiện nay.
Tuyên bố của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS
14/09/2009
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Dr.
Nguyen Quang A
President |
|
Prof.
Hoang Tuy
Chairman |
|
Madam
Pham Chi Lan
Vice-President |
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc
Tuyên bố của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS
Ngày 24-7-2009 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết
định số 97/2009/QĐ-TTg ban hành danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ
chức khoa học và công nghệ (sau đây gọi là Quyết định 97), có hiệu lực từ ngày
15-09-2009.
Viện Nghiên cứu phát triển IDS nhận thấy Quyết định 97 có những sai phạm nghiêm
trọng sau đây:
Một là: Điều 2 của Quyết định 97 không phù hợp với thực tế khách quan của
cuộc sống.
Khoản 2, điều 2 trong quyết định này ghi: cá nhân thành lập tổ chức khoa học
công nghệ “chỉ hoạt động trong lĩnh vưc thuộc Danh mục ban hành kèm theo
Quyết định này. Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền,
không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức
khoa học và công nghệ.”
Như vậy khoản 2 của điều 2 bao gồm 2 điểm chính là
- các lĩnh vực được phép nghiên
cứu quy định trong danh mục kèm theo Quyết định, và
- không được công bố công khai
ý kiến phản biện với danh nghĩa của một tổ chức khoa học và công nghệ.
Về vấn đề danh mục các lĩnh vực được phép tổ chức nghiên
cứu:
Cuộc sống vô cùng phong phú, có nhiều vấn đề chưa biết đến, luôn luôn vận động,
biến đổi và phát triển, luôn luôn đặt ra những đòi hỏi mới, cần có các quyết
sách mới và các giải pháp thích hợp. Vì vậy không thể bó khuôn mọi vấn đề được
phép nghiên cứu trong cuộc sống vào một danh mục dù danh mục ấy có rộng đến
đâu. Quy định như vậy sẽ bó tay các nhà khoa học, những người nghiên cứu
độc lập, hạn chế sự đóng góp của họ vào việc xây dựng chính sách đổi mới và
phát triển đất nước.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo nhằm khám phá các quy luật vận động
trong tự nhiên và xã hội; từ đó tạo ra công nghệ mới, hoạch định chính sách
phát triển và nâng cao dân trí để thúc đẩy xã hội tiến lên. Trong cuộc sống còn
có những lĩnh vực, những vấn đề đã trở nên lỗi thời hoặc đã bị vượt qua. Thực
tế này cũng là một đối tượng quan trọng của công việc nghiên cứu, nhất là trong
tình hình một quốc gia phải ra sức phấn đấu khắc phục tình trạng nghèo nàn và
lạc hậu. Trong một xã hội tiến bộ, công việc nghiên cứu với tính cách như vậy
không thể đóng khung trong một danh mục gồm các lĩnh vực được quy định như đã
nêu trong Quyết định 97.
Trong khi đó, công văn ngày 8-9-2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (thừa ủy quyền
của Thủ tướng trả lời thư ngày 6-8-2009 của Viện IDS gửi Thủ tướng) cho rằng
cách quy định một danh mục các lĩnh vực cho phép cá nhân được thành lập tổ chức
nghiên cứu là thông lệ ở nhiều nước trên thế giới, có nước quy định một
danh mục cho phép, có nước quy định một danh mục cấm, hoặc cả hai. Chúng tôi đã
tìm hiểu kỹ thì chưa thấy nước nào có quy định danh mục các lĩnh vực được phép
nghiên cứu khoa học. Vì vậy cách trả lời trong công văn của Bộ Tư pháp là không
trung thực, thiếu trách nhiệm. Cho đến nay, trên thế giới, việc phân loại các
lĩnh vực khoa học là để thống kê, so sánh, không thể lấy đó làm căn cứ để quy
định các lĩnh vực được phép nghiên cứu. Cách làm như Quyết định 97 sẽ bị dư
luận chê cười, làm hại uy tín của lãnh đạo và của đất nước.
Ý kiến trong công văn của Bộ Tư pháp cho rằng Quyết định vẫn để mở, sẽ tiếp tục
nghiên cứu bổ sung dần các lĩnh vực cho phép, là môt cách biện bạch gượng gạo,
bởi vì “cho phép” thì không bao giờ đủ. Không ai có thể “cho phép” đời sống sẽ
được phát triển đến đâu. Thực chất với Quyết định này, “cho phép” tức là cấm,
và vùng cấm rộng gấp ngàn lần vùng được phép.
Về vấn đề phản biện:
Quá trình đi lên của đất nước chưa có con đường vạch sẵn, cuộc sống có vô vàn
vấn đề thuộc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phản biện để có
thể xử lý đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có rất nhiều ý kiến phản biện
về đường lối chính sách bị cất hầu như không có thời hạn trong các “ngăn kéo”
của các cơ quan chức năng hoặc của những người có thẩm quyền có liên quan. Có
quá nhiều phản biện dưới mọi dạng như kiến nghị, đề nghị, thư, tài liệu nghiên
cứu… không bao giờ được hồi âm.
Ví dụ nổi bật nhất là cải cách giáo dục – một vấn đề sống còn của sự phát triển
đất nước, một yêu cầu bức xúc của xã hội đang được dư luận và giới nghiên cứu
trong và ngoài nước rất quan tâm, phản biện công khai sôi nổi từ nhiều năm nay
nhằm thực hiện những nghị quyết của Đại hội Đảng và các Hội nghị Trung ương
Đảng về cải cách giáo dục. Tuy vậy, sự phản biện này chưa được đánh giá và tiếp
thu nghiêm túc.
Một ví dụ khác gần đây là vấn đề bô-xít, được coi là một chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước. Sự phản biện công khai, quyết liệt vừa qua của rất nhiều nhà
khoa học và các hiệp hội thuộc các lĩnh vực khác nhau đã góp phanà thúc đẩy
việc ban hành quyết định ngày 24-04-2009 của Bộ Chính trị lưu ý những vấn đề
phải quan tâm trong khai thác bô-xít ở Tây Nguyên. Tuy vậy, còn biết bao nhiêu
phản biện quan trọng khác trong vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên vẫn còn bị
bỏ ngỏ.
Trong tình hình nêu trên, cấm các tổ chức khoa học công nghệ do các cá nhân
thành lập phản biện công khai như nêu trong Quyết định 97 thực chất là cấm phản
biện xã hội, hệ quả sẽ khôn lường.
Khoản 2 trong điều 2 của Quyết định 97 không viết thành văn nhưng hàm ý để ngỏ
khả năng: cá nhân được phép phản biện công khai với tư cách riêng của mình. Như
vậy, sẽ không thể giải thích:
(a) Tại sao cá nhân thì được phản biện công khai, còn tổ chức, tức trí tuệ tập
thể và liên ngành được tập họp để có thể có chất lượng cao hơn, thì lại không?
Quy định chỉ cho phép cá nhân phản biện công khai tạo thuận tiện cho việc vô
hiệu hóa hay hình sự hóa việc phản biện của cá nhân? Phải chăng quy định như
vậy ngay từ đầu đã mang tính chất không khuyến khích phản biện, mà có hàm ý làm
nản lòng thậm chí hăm dọa sự phản biện của cá nhân.
(b) Tại sao trong nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một văn
bản pháp quy có tầm quan trọng như vậy lại có thể được thiết kế như một cái bẫy
và để ngỏ khả năng cho việc vận dụng cái bẫy đó?
Hai là: Việc cấm phản biện công khai là phản khoa học, phản tiến bộ, phản
dân chủ.
- Cấm như vậy là phản khoa
học, bởi lẽ: Bất kể một phản biện nào nếu không chịu sự “sát hạch”
công khai, minh bạch trong công luận, sẽ khó xác định phản biện ấy là đúng
hay sai, độ tin cậy của nó, sự đóng góp hay tác hại nó có thể gây ra, khó
lường được các khả năng sử dụng hoặc lợi dụng việc phản biện này.
- Cấm như vậy là phản tiến
bộ, bởi lẽ: Người dân sẽ không biết đến các phản biện đã được đề xuất
hay các vấn đề đang cần phải phản biện, càng không thể biết chất lượng và
tác dụng của những phản biện ấy, không biết nó sẽ được cơ quan có thẩm
quyền đánh giá, tiếp thu hay xử lý như thế nào. Phản biện và tiếp thu phản
biện không công khai sẽ không thể tranh thủ được sự đóng góp xây dựng từ
trí tuệ trong và ngoài nước, hạn chế khả năng sáng tạo tìm ra con đường
tối ưu cho sự phát triển đất nước và vứt bỏ lợi thế của nước đi sau. Trên
hết cả, cấm như vậy là cản trở việc nâng cao trí tuệ và bản lĩnh của người
dân, cản trở vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Cấm như vậy chẳng khác
nào biểu hiện chính sách ngu dân.
- Cấm như vậy là phản dân
chủ, bởi lẽ: Nhân dân – người chủ của đất nước - sẽ thiếu những thông
tin để tự mình tìm hiểu, đánh giá mọi vấn đề có liên quan của đất nước mà
họ không thể không quan tâm. Cấm như vậy là tước bỏ hay làm giảm sút khả
năng của nhân dân giám sát, kiểm tra, đánh giá hay đóng góp xây dựng, hình
thành và nói lên các ý kiến của họ, tán thành hay bác bỏ một chủ trương
nào đó; trên thực tế là cấm hay ngăn cản quyền của nhân dân tham gia vào
công việc của đất nước. Cấm như vậy là ngược với tiêu chí Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Ba là: Quyết định 97 có nhiều điểm trái với đường lối của Đảng và vi phạm
pháp luật của Nhà nước.
- Trước hết, đối với Hiến pháp,
điều 2 trong Quyết định 97 vi phạm Điều 53 quy định
công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của cả nước và địa phương; Điều 60
quy định công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng
chế, sáng tác; Điều 69 quy định công dân có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp,
lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
- Đối với Luật Khoa học
và công nghệ, điều 2 Quyết định 97 không phù hợp với tinh thần của
Luật này coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, khuyến khích sự
tham gia nghiên cứu của các tổ chức và cá nhân, Nhà nước đảm bảo và hỗ trợ
sự thực hiện những kết quả nghiên cứu, khuyến khích các hội khoa học và
công nghệ có trách nhiệm tổ chức, động viên các thành viên tham gia tư
vấn, phản biện, giám định xã hội và tiến hành các hoạt động khoa học và
công nghệ… v.v.
- Đặc biệt quan trọng là Quyết
định 97 có nhiều điểm trái với tinh thần và nội dung Nghị quyết số
27 - NQ/T.Ư "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" mới được ban hành tháng
10-2008. Nghị quyết này nhấn mạnh thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy
tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Việc ban hành Quyết định 97
còn vi phạm khoản 2 và khoản 4 Điều 67 trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, cụ thể là đã bỏ qua trình tự bắt buộc phải công bố dự thảo
quyết định trước ít nhất 60 ngày trước khi kí để bảo đảm sự tham gia ý
kiến của dân. Trong công văn trả lời Viện IDS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp lập
luận rằng: quyết định 97 được xây dựng và ban hành đúng luật vì toàn bộ
các bước soạn thảo, lấy ý kiến, thẩm định dự thảo quyết định đã được hoàn
tất trong năm 2008 khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi
năm 2008) phải đến 1-1-2009 mới có hiệu lực. Sự biện bạch này không thể
chấp nhận được. Quá trình soạn thảo, thẩm định bắt đầu từ bao giờ, kéo dài
bao lâu, là việc nội bộ của các cơ quan hữu trách. Nhân dân, là những
người chịu tác động của Quyết định, chỉ có thể biết ngày ban hành chính
thức của Quyết định 97 là ngày 24-7-2009, hơn 7 tháng sau khi Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực. Như vậy rõ ràng là việc ban
hành Quyết định 97 vi phạm luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vì
sao một quyết định quan trọng liên quan đến một lĩnh vực lớn được coi là
quốc sách hàng đầu, lại được thực hiện môt cách vội vã và tùy tiện như
vậy.
Có thể kết luận, Quyết định 97 nếu được thực hiện sẽ làm nặng nề thêm thực
trạng thiếu công khai minh bạch rất nguy hại cho việc xây dựng và thực thi pháp
luật, làm trầm trọng thêm tình trạng tụt hậu hiện nay của đất nước.
** *
Trong gần 2 năm hoạt động, Viện Nghiên cứu phát triển IDS đã
làm được một số việc có ích cho đất nước, đóng góp ý kiến xây dựng đối với một
số vấn đề hay chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, được dư luận xã hội,
đặc biệt là giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Mọi hoạt động của
Viện IDS từ ngày thành lập cho đến nay đều tiến hành đúng pháp luật, công khai,
minh bạch.
Tuy nhiên trong thời gian qua, tồn tại dai dẳng một số nhận xét sai lệch của cơ
quan an ninh về Viện IDS, thậm chí cho rằng Viện nhận tiền của nước ngoài và có
hoạt động chống đối Nhà nước…Ngày 16-01-2009 Viện IDS đã có thư gửi các vị lãnh
đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước nêu rõ quan điểm của Viện về những nhận định
sai trái này, song tiếc rằng cho đến nay bức thư này của Viện chưa nhận được
bất kể một hồi âm nào.
Ngay sau khi có Quyết định 97, Hội đồng Viện IDS đã thảo luận, phân tích những
chỗ sai cả về thủ tục và nội dung của quyết định này. Với ý thức tôn trọng
Chính phủ và Thủ tướng, và để biểu thị thiện chí của mình, Hội đồng Viện chúng
tôi nhất trí chưa bày tỏ ý kiến công khai mà trước hết gửi thư ngày 6-8-2009
nêu rõ với Thủ tướng những chỗ sai của Quyết định 97 và kiến nghị cách giải
quyết nhằm tránh các hệ quả bất lợi về nhiều mặt.
Sau khi gửi thư, đại diện của Hội đồng Viện được mấy vị lãnh đạo mời gặp, riêng
Thủ tướng mời gặp hai lần; nhân dịp đó chúng tôi trình bày rõ thêm và trao đổi
ý kiến thẳng thắn về những nhận xét và kiến nghị đã nêu trong thư.
Viện IDS đã kiên tâm chờ đợi. Ngày 11-9-2009, Chủ tịch Hội đồng Viện IDS được
Bộ trưởng, chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thừa ủy quyền của Thủ tướng mời đến
VPCP và trao cho hai văn bản. Một là công văn số 3182/BTP-PLDSKT ngày 8-9-2009
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng trả lời Hội đồng Viện
Nghiên cứu phát triển IDS về những điều nêu trong thư của Viện gửi Thủ tướng
ngày 6-8-2009. Hai là công văn số 1618/TTg-PL ngày 10-9-2009 của Bộ trưởng Chủ
nhiệm VPCP thừa ủy quyền của Thủ tướng yêu cầu Bộ Khoa học và công nghệ ra văn
bản hướng dẫn thi hành Quyết định 97 và thu thập kiến để kiến nghị bổ sung
danh mục ban hành theo quyết định này.
Hai công văn này cho thấy tất cả các kiến nghị của Viện IDS về Quyết định 97
đều không được chấp nhận.
Toàn viện IDS và từng thành viên đã hết sức đề cao tinh thần trách nhiệm công
dân, ý thức kỷ luật và thiện chí, nhưng những cố gắng đó đã không được đáp ứng.
Trước tình hình như vậy, với một quyết định hạn chế đến mức vô lý quyền nghiên
cứu của một tổ chức khoa học, Viện nghiên cứu phát triển IDS không thể tiếp tục
hoạt động theo sứ mệnh đã xác định trong mục tiêu ghi vào Điều lệ của mình.
Chấp nhận hoạt động theo Quyết định 97, viện IDS và các thành viên sẽ không thể
làm đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương Đảng về trí thức mới ban hành,
đồng thời không thể làm tròn trách nhiệm công dân và nghĩa vụ người trí thức
của mình.
Ngày 14-09-2009, Hội đồng
Viện IDS đã họp phiên toàn thể, quyết định tự giải thể để biểu thị thái độ dứt
khoát của Viện đối với Quyết định 97. Quan điểm của Viện chúng tôi được trình
bày trong tuyên bố này và được công bố kèm theo các tài liệu liên quan[1].
Chúng tôi cũng giữ quyền sử dụng tiếp các công cụ pháp lý để bảo vệ sự trong
sáng của luật pháp.
Làm tại Hà Nội ngày 14-09-2009
Các thành
viên Hội đồng IDS đã ký
Stt
|
Tên thành viên
|
1
|
Hoàng Tuỵ, Chủ tịch Hội đồng Viện IDS
|
2
|
Nguyễn Quang A, Viện trưởng
|
3
|
Phạm Chi Lan, Viện phó
|
4
|
Lê Đăng Doanh
|
5
|
Chu Hảo
|
6
|
Phạm Duy Hiển
|
7
|
Vũ Quốc Huy
|
8
|
Tương Lai
|
9
|
Phan Huy Lê
|
10
|
Nguyên Ngọc
|
11
|
Trần Đức Nguyên
|
12
|
Trần Việt Phương
|
13
|
Nguyễn Trung
|
14
|
Phan Đình Diệu
|
15
|
Vũ Kim Hạnh
|
16
|
Huỳnh Sơn Phước
|
[1] Các tài liệu gửi kèm:
1. Thư ngày 6-8-2009 của
Viện IDS gửi Thủ tướng và các vị lãnh đạo
(Xin bấm vào hình để phóng lớn)
2. Công văn trả lời IDS số 3182/BTP-PLDSKT của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
(Xin bấm vào hình để phóng lớn)
3. Văn thư ngày 16-1-2009
của IDS gửi các vị lãnh đạo và Thứ trưởng Bộ Công An
(Xin bấm vào hình để phóng lớn)
|