Hà Nội Cần Phải Chấm Dứt Vi Phạm Quyền Lao Động Mới Có Thể Tham
Gia Vào Chương Trình Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát (Generalized System Of
Preferences – GSP) của Hoa-KỳNguyễn Quốc KhảiWashington-DC18-08-2008 Hình
(CAMSA): Một số công nhân Việt-Nam làm việc cho hãng Polar Twin Advance
(PTA) tại Malaysia, nạn nhân của nạn bóc lột lao động và ngược đãi, đã
được CAMSA bảo vệ và dành được thắng lợi và công bằng. Cô Ánh Lụa (áo
đỏ là nhân viên toàn thời gian của văn phòng CAMSA tại thành phố
Penang. PTA dự trù sẽ ký kết thoả hiệp với CAMSA trong tuần này.
LGT:
Ông Nguyễn Quốc Khải hiện nay là chủ tịch của Ủy Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ
Người Lao Động Việt-Nam (CPVW-USA), trụ sở đặt tại Falls Church,
Virginia, một thành viên của Liên Minh Chống Nô Lệ Mới ở Á châu
(Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in Asia – CAMSA). Ông cũng là
chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ báo điện tử Vietnam Review, từng là
chuyên viên kinh tế của Ngân Hàng Thế Giới và Giáo Sư Thính Giảng của
School of Advanced International Studies thuộc Johns Hopkins
University.
oo0oo
Vào
tháng 5-2008, Hà Nội đã chính thức gửi văn thư yêu cầu Hoa Kỳ cho hưởng
Quy Chế Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát (Generalized System of Preferences -
GSP). Trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vào cuối tháng 6 vừa qua, Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã nhân danh chính phủ Việt-Nam để thỉnh cầu chính phủ
Hoa-Kỳ cho Việt Nam được gia nhập vào Chương trình GSP của Hoa Kỳ. Bản
thông cáo chung của hai nước đã đề cập đến vấn đề này. Văn Phòng Đại
Diện Thương Mại Hoa Kỳ (Office of the U.S. Trade Representative - USTR)
hiện nay đang cứu xét lời yêu cầu của Việt-Nam.1. Chế độ Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát (GSP) của Hoa Kỳ là gì?Chương
trình GSP được Hoa Kỳ thực hiện vào năm 1976. Mục đích là giúp các quốc
gia đang mở mang phát triển thêm về kinh tế bằng cách cho phép hàng
ngàn sản phẩm từ các quốc gia này được nhập cảng miễn thuế vào Hoa Kỳ.
Tính đến tháng 6-2008, 144 nước đã gia nhập chương trình GSP. 1/Hoa
Kỳ xử dụng những tiêu chuẩn của chương trình GSP để khuyến khích những
nước đang phát triển tôn trọng quyền lao động, bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ, giảm bớt hàng rào cản trở ngoại thương, mở rộng thị trường cho sản
phẩm của Hoa Kỳ cũng như đối sử với những nhà đầu tư Mỹ một cách công
bằng. 2. Những sản phẩm nào được nhập cảng miễn thuế vào Hoa Kỳ trong chương trình GSP? Có
khoảng 4,650 loại hàng, tức là 1/3 số hàng nhập cảng vào Hoa Kỳ, nằm
trong chương trình GSP. Trong số đó, Việt-Nam có khoảng 1,000 loại sản
phẩm hội đủ tiêu chuẩn để được nhập cảng vào Mỹ. Những loại hàng không
nằm chương trình GSP gồm hàng dệt và quần áo, hầu hết những đồng hồ đeo
tay, giầy dép, túi cầm tay, áo quần bằng da, găng tay, v.v.3. Mỗi quốc gia phải hội đủ những tiêu chuẩn nào để có thể gia nhập vào chương trình GSP?Muốn gia nhập chương trình GSP, những nước đang phát triển phải thỏa mãn một số tiêu chuẩn sau đây:a. Lợi tức trung bình đầu người cho một năm dưới US$11,116. b.
Cho phép sản phẩm của Hoa-Kỳ tiếp cận thị trường một cách quân bình và
hợp lý và sản phẩm sơ đẳng (primary products) như khoáng sản, cao su,
bông gòn, trà, cà phê, v.v.c. Bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.d. Làm giảm bớt những hàng rào ngăn cấm tự do thương mại, đặc biệt về khu vực dịch vụ.e.
Không phải là nước cộng sản, ngoại trừ nước này (i) có liên hệ thương
mại bình thường với Hoa-Kỳ; (ii) là hội viên của Tổ Chức Thương Mại
Quốc Tế (WTO); (iii) là hội viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF); và (iv)
không bị cưỡng chế ngự bởi cộng sản quốc tế.f. Bảo vệ đầy đủ
quyền lao động được quốc tế công nhận trên năm lãnh vực: (i) quyền lập
hội; (ii) quyền tổ chức và thương lượng tập thể; (iii) cấm cưỡng bách
lao động; (iv) ấn định tuổi tối thiểu của trẻ em có thể đi làm và cấm
những hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em; và (v) Điều kiện làm
việc có thể chấp nhận được đối với mức lương tối thiểu, số giờ làm
việc, và an toàn nghề nghiệp và sức khoẻ. 4. Hiện nay Việt-Nam có hội đủ tiêu chuẩn để gia nhập vào chương trình GSP hay không?Lợi
tức trung bình mỗi đầu người hàng năm của Việt Nam vào năm 2006 là
US$690, còn quá thấp so với mức lợi tức thấp nhất của những nước giầu
là US$11,116. Do đó Việt-Nam được coi là một quốc gia nghèo để được
hưởng quy chế GSP. 2/Theo Hiệp Định Thương Mại Song Phương
Việt-Mỹ (BTA), Việt-Nam đã thỏa mãn điều kiện thứ hai về mở cửa thị
trường cho sản phẩm Hoa-Kỳ và thị trường sản phẩm sơ đẳng.Việt-Nam
không thi hành những biện pháp cần thiết trong nhiều năm qua để bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, tác giả không nghĩ rằng Việt-Nam thỏa mãn
điều kiện này. Tác giả sẽ trở lại đề tài quyền sở hữu trí tuệ trong
một dịp khác.Việt-Nam còn có nhiều cản trở cho sự tự do thương
mại, nhất là trong lãnh vực dịch vụ mà hiện nay những nhà đầu tư Hoa Kỳ
chiếu cố khá nhiều. Tuy nhiên Việt-Nam đã cải thiện đáng kể lãnh vực
ngoại thương qua những hiệp định thương mại ký kế với nhiều quốc gia
như ASEAN, WTO, European Union, Hoa Kỳ, Nhật, v.v. đặc biệt trong vòng
10 năm vừa qua.Chế độ Cộng Sản Việt-Nam về thực chất không còn
nữa. Nhưng hiện nay Việt-Nam vẫn còn Đảng Cộng Sản. Ở bên ngoài Hà Nội
vẫn tôn thờ Marx - Lenin. Việt-Nam vẫn bị coi là một nước cộng sản.
Tuy nhiên, Việt Nam đã gia nhập IMF vào năm 1956, đã thiết lập liên hệ
thương mại bình thường với Hoa-Kỳ vào năm 2006, và gia nhập WTO vào năm
2007. Do đó, Việt-Nam vẫn hội đủ tiêu chuẩn của chương trình GSP trong
lãnh vực này.Tác giả chỉ thảo luận về lãnh vực lao động trong
bài này. Đây là một lãnh vực đặc biệt quan trọng đối với chương trình
GSP mà Hà Nội sẽ gặp nhiều khó khăn để có thể bào chữa cho những vi
phạm trầm trọng khó mà chối cãi. Lãnh vực này cũng mang tính cách hệ
trọng đối với Ủy Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ Người Lao Động Việt-Nam. 5.
Về lãnh vực lao động, chính phủ Hà Nội đã đạt đước những tiêu chuẩn nào
của chương trình GSP và không thực hiện được điểm nào?Trong
phần này tác giả sẽ phân tách những vấn đề lao động theo những tiêu
chuẩn liệt kê trong phần 502(c) của Đạo Luật Thương Mại của Hoa Kỳ ban
hành vào năm 1974 (Trade Act of 1974), đã được tu chính (19 U.S.C.
2462(c)).Trên nguyên tắc, Ủy Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ Người Lao Động
Việt-Nam (CPVW-USA) ủng hộ mạnh mẽ việc chấp thuận cho Việt-Nam hưởng
quy chế ưu đãi thuế quan phổ quát của Hoa Kỳ, gọi tắt là quy chế GSP,
để phát triển thêm trao đổi thương mại giữa hai quốc gia, tăng cường
quan hệ của Hoa Kỳ với Việt-Nam, một quốc gia ở vị thế chiến lược trong
vùng Đông Nam Á, và giúp nông dân, công nhân, và kỹ nghệ gia Việt-Nam
nâng cao mức sống bằng cách cho phép hàng ngàn sản phẩm của Việt-Nam
nhập cảng vào Hoa Kỳ được miễn thuế. 3/Tuy nhiên CPVW-USA phải
thừa nhận rằng Việt Nam hiện nay chưa thỏa mãn được ngay cả những tiêu
chuẩn căn bản về lao động. Việt-Nam chưa thực hiện một biện pháp cụ
thể nào để tôn trọng quyền lao động đã được quốc tế công nhận và cũng
đã được định nghĩa trong phần 507(4) của Đạo Luật Thương Mại Hoa Kỳ
1974 và đã được tu chính (19 U.S.C. 2467).A. Quyền lập hộiViệt
Nam không có những hội tư nhân hay còn gọi là những hội vô chính phủ
(Non-Government Organizations - NGOs), mà chí có những hội do chính phủ
gây dựng lên và bảo trợ (government-sanctioned organizations - GSOs).
Những hội GSO này kể cả những tổ chức tôn giáo – ngoại trừ một số ít bị
đàn áp liên tục vì muốn duy trì tính chất độc lập – phải là của chính
phủ hoặc phải lệ thuộc vào chính phủ. 4/Sự thật là Việt-Nam
chưa đồng ý phê chuẩn Công Ước 1948 về quyền tự do lập hội và quyền tổ
chức (the U.N. Convention of 1948 (C87) concerning Freedom of
Association and Protection of the Right to Organize.) Việc lập hội
không những không được khuyến khích mà còn bị cấm đoán.Vào cuối
tháng 10-2006, ông Nguyễn Khắc Toàn, cựu nhà báo, đã thành lập Công
Đoàn Độc Lập Việt-Nam (CĐĐLVN) để bảo vệ quyền lợi công nhân. Lập tức
chính quyền Hà Nội đã cấm hội này hoạt động. Ông Toàn tiếp tục bị canh
chừng và theo rõi cho đến ngày hôm nay.Vào đầu tháng 11-2006,
Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt-Nam (HHĐKCNVN) đã được thành lập. Sau
khi Hội Nghị Thượng Đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Á Châu và Thái Bình Dương
(Asia-Pacific Economic Cooperation – APEC) kết thúc tại Hà Nội và
Việt-Nam đã đặt chân vào Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (World Trade
Organization – WTO), tất cả bốn công nhân lãnh đạo của HHĐKCNVN đã bị
bắt và bị kết án tù từ 18 tháng cho đến 3 năm. B. Quyền tụ tập.Công
dân không có quyền tụ tập tại Việt-Nam. Nếu tụ tập từ năm người trở lên
đều phải xin phép chính quyền địa phương. (Điều 5.2 của Nghị Định
38/2005/NĐ-CP về trật tự công cộng, ký ngày 18-03-2005 và Điều 4.1 của
Thông tư của Bộ Công An số 09/2005/TT-BCA ngày 05-09-2005).Nói
tóm lại, chính quyền Hà Nội đã hợp pháp hóa chế độ toàn trị và lạm dụng
quyền lực để cấm tất cà những cuộc biểu tình và đình công ôn hòa của
dân oan cũng như của công nhân. 5/ C. Quyền tổ chức và thương lượng tập thể.Người
lao động Việt-nam không có quyển tổ chức và thương lượng tập thể. Tất
cả những cuộc đình công tại Việt-Nam có tính cách bộc phát không do cá
nhân, nhóm, hay chính phủ chính thức tổ chức. Do đó, sức mạnh thương
lượng tập thể rất yếu. Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt-Nam
(TLĐLĐVN) là một tổ chức nghiệp đoàn quốc gia duy nhất ở Việt-Nam. Tất
cả các công đoàn phải phụ thuộc vào TLĐLĐVN. Đây là một trong những
phong trào vận động quần chúng của Mặt Trận Tổ Quốc. Những người lãnh
đạo của TLĐLĐVN ở cấp quốc gia và địa phương phần lớn đều là đảng viên
của Đảng Cộng Sản Việt-Nam. Những người này là những công nhân được trả
lương cao tại những công ty. Dĩ nhiên, họ phục vụ quyền lợi của chủ
nhân và của Đảng CSVN thay vì quyền lợi của người lao động.Theo
luật, bất cứ một cuộc đình công nào đều phải có sự chấp thuận của
TLĐLĐVN. Tuy nhiên, thực tế cho thấy TLĐLĐVN chưa bao giờ khởi xướng,
tổ chức, hoặc cho phép bất cứ một cuộc đình công nào. Do đó tất cả các
cuộc đình công tại Việt-Nam được xem là bất hợp pháp.Gần đây,
chính quyền Hà Nội lại ban hành thêm một nghị định có tính cách chống
người lao động bằng cách buộc người lao động tham gia đình công bất hợp
pháp phải bồi thường thiệt hại cho chủ nhân. 6/D. Cấm cưỡng bách lao độngPhúc
trình mới nhất của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 11-03-2008 về nhân quyền
nhận định rằng “Luật Vịêt-Nam cấm cưỡng bách lao động, kể cả trẻ em.
Tuy nhiên có những báo cáo cho biết rằng trên thực tế cưỡng bách lao
động đã xẩy ra. Tù nhân thông thường phải làm việc, nhưng không được
trả tiền hoặc rất ít. Họ phải tự sản xuất thực phẩm và những sản phẩm
khác để dùng trong các trại tù hoặc bán ra các chợ địa phương để mua đồ
dùng cá nhân.” 7/E. Tuổi làm việc tối thiểu và lao động trẻ emViệt
Nam đã phê chuẩn hai công ước quan trọng liên quan đến lao động trẻ em
và lương tối thiểu lần lượt vào năm 2000 và 2003: (i) Công Ước 182: Cấm
những hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em; và (ii) Công Ước 138:
tuổi làm việc tối thiểu. Tuy nhiên, lao động trẻ em vẫn là một vấn đề.
Trẻ em phải đối phó với với rủi ro bị bóc lột về phương diện kinh tế. Luật
Việt-Nam đòi hỏi rằng tuổi tối thiểu để làm việc là 18. Trẻ em trong
lứa tuổi 15-18 có thể làm việc, nếu chủ công ty có giấy phép của cha mẹ
và Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội (LĐTBXH). Tuy nhiên, Bộ LĐTBXH có
phương tiện rất giới hạn để có thể cương bách việc thi hành luật. Trong
khi giáo dục bắt buộc và miễn phí cho đến tuổi 14, nhân viên chính phủ
không thường xuyên bắt buộc luật phải được tôn trọng.Vào tháng
6-2006, Bộ LĐTBXH tường trình rằng 30 phần trăm trẻ em trong lứa tuổi
6-17 làm việc này hay việc khác. Tuy nhiên, những nhà quan sát tin rằng
con số thực sự cao hơn nhiều bởi vì phần đông những trẻ em làm việc tại
vùng quê trong các nông trại và cơ sở làm ăn của gia đình, không bị lệ
thuộc vào luật lao động trẻ em. F. Điều kiện làm việc và lương bổngLuật
Lao Động Việt-Nam cam kết bảo vệ người lao động như bất cứ một quốc gia
phát triển nào. Tuy nhiên, trên thực tế, phần đông công nhân Việt-Nam
phải chịu thiệt thòi một cách đáng kể vì tiền lương thấp, ngày làm việc
dài, không trả lương giờ phụ trội, điều kiện làm việc thiếu an toàn về
sức khỏe, không bảo hiểm, và không tiền hưu trí.Công nhân Việt
Nam đình công 400 lần trong năm 2006 và 600 lần trong năm 2007. Số lần
đình công sẽ lớn hơn và cường độ sẽ mạnh hơn trong năm 2008. Việt-Nam
đang trải qua nạn lạm phát cao trên 25 phần trăm và tình trạng đình
công lan rộng trên khắp mọi vùng trong vài năm qua. Chỉ số giá tiêu
thụ gia tăng đã bóp nghẹt công nhân, giới có lợi tức thấp nhất.Một
người thợ trung bình phải làm ít nhất 10 giờ một ngày và 6 ngày một
tuần. Môi trường làm việc trong nhiều trường hợp không thể chấp nhận
được. Tuy nhiên, người thợ này chỉ được trả lương 50 Mỹ kim hàng
tháng. Với lợi tức này và với mức lạm phát cao, công nhân Việt-Nam cảm
thấy rất khó khăn để có thể nuôi sống gia đình. Vào tháng
2-2008, Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển (BPSOS) và Liên Minh CAMSA đã cứu
thoát được gần 200 công nhân Việt-Nam, hầu hết là phụ nữ, ngoại trừ 4
người, tại Jordan, khỏi cảnh bị đánh đập, làm quá sức và ăn chặn tiền
lương. Cũng trong tháng 2-2008, BPSOS và CAMSA đã tranh đấu
thành công cho 2,600 công nhân ngoại quốc ở Malaysia, kể cả 1,300 công
nhân Việt-Nam. Họ là những nạn nhân của nạn bóc lột và ngược đãi. Những
công nhân này đáng lẽ được trả 245 Mỹ kim mỗi tháng. Tuy nhiên nhiều
khi họ chỉ nhận được 3 Mỹ kim mỗi hai tuần. Chúng tôi đã quyết định
hủy bỏ vụ kiện vì chủ công ty nhanh chóng đồng ý bồi thường tất cả
những thiệt thòi mất mát của công nhân và đồng ý tôn trọng hợp đồng
nguyên thủy.Chính phủ Hà Nội đã không có hành động bảo vệ công
dân của mình trong những trường hợp này. Trái lại, viên chức Việt Nam
từ Cairo và Hà Nội bay đến Amman, Jordan, đã đe dọa công nhân Việt-Nam
nếu họ bỏ việc. Nhân viên công an còn tiếp xúc với thân nhân của họ ở
Việt-nam để nhờ áp lực họ chấm dứt đình công.Theo luật lệ hiện
nay, công nhân phải đưa những tranh chấp ra tòa. Họ chỉ có thể đình
công nếu những cuộc tranh chấp không giải quyết được qua những cuộc
điều đình. Công nhân phải bồi thường chủ nhân nếu tòa phán rằng cuộc
đình công của công nhân là bất hợp pháp.(6) Những giải pháp đề nghị Hà Nội muốn xin gia nhập chương trình GSP, cần phải thỏa mãn những điều kiện sau đây theo chương trình GSP về lãnh vực lao động:(1)
Trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho những người lãnh đạo
HHĐKCNVN: Trần Thị Lệ Hồng (bí danh: Nguyễn Thị Lệ Hằng), Nguyễn Thị
Tuyết, Đoàn Văn Diên (bí danh: Hoàng Thanh Thuỷ), Trần Quốc Hiền (luật
sư, phát ngôn viên của HHĐKCNVN), và Phùng Quang Quyến. 8/(2)
Tiết lộ số phận của ông Lê Trí Tuệ, một người vận động cho quyền lao
động, trốn khỏi Việt-Nam sang Campuchia. Ông đã trình diện tại văn
phòng tị nạn của Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh nhưng mất tích kể từ ngày
06-05-2007. Người ta e ngại rằng ông Tuệ đã bị bắt cóc và đưa về
Việt-Nam bởi công an. (3) Hợp thức hóa hai tổ chức HHĐKCNVN và CĐĐLVN và cho phép công nhân tự do lập nghiệp đoàn.(4)
Phê chuẩn Công Ước 1948 (C87) liên quan đến quyền lập hội và quyền tổ
chức. Những quyền này được công nhận trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về
Nhân Quyền.(5) Hủy bỏ nghị định số 38/2005/NĐ-CP và thông tư số
09/2005/TT-BCA về trật tự công cộng, cấm đoán mọi tụ tập từ năm người
trở lên.(6) Biến đổi TLĐLĐVN thành một viện nghiên cứu quốc gia về lao động.(7)
Dành nhiều phương tiện hơn để cưỡng bách việc thi hành luật lao động
để bảo vệ công nhân ở trong nước và hải ngoại chống lại nạn buôn người
và lao động bằng cách chuyển một phần ngân sách của Bộ Công An qua Bộ
LĐTBXH.1. USTR, “STR Preference Programs”,
http://www.ustr.gov/Trade_Development/Preference_Programs/Section_Index.html,
August 19, 2008. 2. Theo Ngân Hàng Thế Giới, những quốc gia có lợi
tức quốc gia trung bình cho mỗi đầu người từ US$ 905 trở xuống được xếp
vào nhóm nước nghèo và từ US$11,116 trở lên thuộc nhóm nước giầu. 3.
Office of the U.S. Trade Representative, Executive office of the
President, “U.S. Generalized System of Preferences Guidebook,”
Washington-DC, February 2007. 4. Well-known cases include the
Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV), Hoa Hao Buddhist Church,
Dalat group, Bloc 8406, The Vietnam Progress Party, the Vietnam Reform
Party, the People’s Democratic Party, the Democratic Party of Vietnam,
the Vietnam Populist Party, and the United Workers–Famers Association
of Vietnam, the Independent Labor Union of Vietnam. 5. Victims of
illegal confiscations of land and private property by government or
party officials in the name infrastructure development. 6. Decree No. 11/2008/NĐ-CP, January 30, 2008 and Circular No. 07/2008/TTLT-BLDTBXH-BTC, May 30, 2008. 7.
The U.S. Department of State, “Country Reports on Human Rights
Practices – 2007,” released by the Bureau of Democracy, Human Rights,
and Labor, March 11, 2008. 8. Doan Huy Chuong (aka Nguyen Tan Hoanh, UWFAV founder) was released in May 13, 2008 after serving an 18-month sentence.
|