Đây là một bài viết rất hay của bác sỹ Phạm Hồng Sơn, đăng trên tạp chí Thông Luận. Mời các bạn cùng đọc
Tự do chính trị: nền tảng cho trí thức và nhân phẩm
Phạm Hồng Sơn
cơ chế vận hành của hệ thống quyền lực phi dân chủ được xây dựng
không phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm (tôn trọng ý kiến
khác biệt, tôn trọng tự do của tư duy)
Trân trọng gửi tặng Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
I. Ba giai đoạn trong quan niệm về Trí thức
Về thuật ngữ Trí thức của Việt Nam hay tương đương của phương Tây
(Anh, Pháp) là Intellectual, Intellectuel đều là những thuật ngữ có
tuổi trẻ so với lịch sử quốc gia. Ở Việt Nam thuật ngữ Trí thức chắc
chắn chỉ có sau khi chữ quốc ngữ ra đời với sự du nhập của văn hóa
phương Tây (có thể có mục đích thay cho từ Sĩ Phu thời nho học) và đã
thấy xuất hiện một cách tự nhiên trong các tác phẩm giảng dạy của Đông
Kinh Nghĩa Thục vào năm 1907. Đối với phương Tây, thuật ngữ
Intellectual (Intellectuel) cũng được cho là chỉ trở thành danh từ chỉ
người trong tiếng Pháp vào khoảng cuối thế kỷ 19 (sau vụ án oan Dreyfus
nổi tiếng). Đối với tiếng Việt trước đây, thuật ngữ Trí thức còn đồng
nghĩa với từ Tri thức hiện nay đang dùng.
Việc tranh luận về quan niệm Trí thức vẫn đang là một tranh luận ngỏ,
tuy nhiên để có thể dễ dàng hình dung, tôi xin được khái quát hóa sự
phát triển ý niệm Trí thức (con người) theo 03 giai đoạn sau:
- GĐ1: khi chữ viết mới phát triển, lao động chủ yếu dựa vào cơ bắp,
Trí thức là những người sở hữu một công cụ (chữ viết) để tiếp cận kho
tàng tri thức nhân loại. (giai đoạn đó được gọi là Sĩ phu của Việt Nam
hay Men of letters của phương Tây). Ở Việt Nam, giai đoạn này có thể
lấy mốc là năm thành lập trường Đại học y Hà nội năm 1902 trở về trước.
Còn ở phương tây có thể lấy mốc từ thế kỷ 17 trở về trước (trước thời
kỳ Khai sáng).
- GĐ2: Khi chữ viết đã được lan truyền rộng rãi và xã hội đã phát triển
nhiều nghề nghiệp liên quan đến sử dụng chữ viết, ít sử dụng cơ bắp thì
Trí thức được dành gọi chung cho những người làm những công việc (nghề
nghiệp) có vẻ ngoài nhàn hạ, hiếm và thu nhập cao (do hiếm) như Giáo
viên, Luật sư, Kỹ sư, Bác sĩ. Sau đó mở rộng thêm sang Nhà báo, Nhà
văn, Hoạ sĩ, Nhạc sĩ
Ở Việt Nam, giai đoạn này tính từ 1902 đến năm
2001. Ở phương Tây: sau kỳ Khai sáng đến năm 1975.
- GĐ3: Quan niệm Trí thức với sự gắn kết vào bằng cấp, nghề nghiệp,
tầng lớp đã bị thách đố. Ở Việt Nam, giai đoạn này tính từ năm 2001đến
nay. Ở phương Tây từ năm 1975 đến nay.
Mốc năm 1975 hay năm 2001 có tính biểu tượng để có thể thấy rõ không
chỉ những người được đào tạo chính thống qua trường lớp hay có học vị
mới có thể đóng góp trí tuệ cho tiến bộ của con người. Năm 1975 là năm
sinh viên 20 tuổi có tên là Bill Gates tự bỏ học ở trường đại học danh
tiếng Harvard để đi làm và sau đó đã trở thành Bill Gates ngày nay.
Tương tự, mốc 2001 tại Việt Nam cũng là năm ông Thần Đèn Nguyễn Cẩm
Luỹ (mới học hết lớp 04) lập công ty chuyên về di dời những công trình
xây dựng gây kinh ngạc cho giới kỹ sư xây dựng. Mặc dù trước mốc 1975
hay 2001 cũng đã có nhiều nhân vật kiệt xuất trong sáng tạo mà không
qua trường lớp như Thomas Edison, anh em nhà Wrights (đối với phương
Tây) hay Vua Lốp Nguyễn Văn Chẩn ở Việt Nam. Nhưng tôi chọn hai mốc
trên bởi chúng có những đặc điểm quan trọng vì năm 1975 thế giới chuẩn
bị đi vào thập kỷ bừng tỉnh khỏi ngộ nhận đối với chủ nghĩa cộng sản ở
mức độ toàn cầu và phát minh của Bill Gates về công nghệ điện toán đã
góp phần làm biến đổi thế giới (được Time chọn là 100 nhân vật ảnh
hưởng của thế kỷ 20). Năm 2001, đối với Việt Nam, sau 15 năm mở cửa về
kinh tế, đã có một tầng lớp vừa có tài sản lớn, vừa có quyền lớn và học
vị lớn (những lãnh đạo các cơ quan chính quyền), nạn bằng giả, bằng
thật (học giả) đã trở thành phổ biến trong xã hội thì chính hiện
tượng Thần đèn là một cơ hội cho lương tri xã hội phải thức tỉnh và
đặt lại câu hỏi về Trí thức hoặc ít nhất cũng thấy sự tương phản giữa
bằng cấp, danh vị và những đóng góp thực tế.
Dù ở giai đoạn nào trong 03 giai đoạn trên và dù ở Tây hay Ta, ý niệm
Trí thức luôn được ngầm hiểu là những người quan trọng trong việc đóng
góp trí tuệ cho xã hội.
II. Ba ngộ nhận đề nghị loại bỏ
Ngộ nhận Trí thức là những người có bằng cấp cao
Ngộ nhận này bắt nguồn từ giai đoạn đầu của việc phổ cập chữ viết. Chữ
viết là một công cụ đắc lực cho con người khám phá kho tàng kiến thức,
kinh nghiệm khổng lồ của nhân loại. Do đó, ban đầu những ai có được
công cụ này cũng đồng nghĩa với việc có sự hiểu biết, khả năng hơn
người khác vì họ thường biết thêm được những kinh nghiệm quí giá từ
những nơi khác mà con người sở tại chưa biết. Phần lớn việc phổ biến
những kinh nghiệm quí giá đó chỉ là sự bắt chước, làm lại những gì
người khác đã làm chứ không phải do sự sáng tạo mang lại. Nhưng kho
tàng kiến thức cũng như các loại kho tàng khác, nếu không được bổ sung
thì nó cũng sẽ bị cạn kiệt hoặc không còn giá trị cho những đòi hỏi
mới của cuộc sống nữa. Do đó điều quan trọng là phải đóng góp được
những giá trị mới cho nghề nghiệp, xã hội hay nhân loại. Ví dụ như Nhật
Bản đã học kỹ nghệ chế tạo ô-tô tại châu Âu, châu Mỹ, nhưng Nhật Bản đã
đóng góp thêm những giá trị mới cho nghành chế tạo ô-tô như tính tiết
kiệm nhiên liệu, tính thân thiện với môi trường.
khi tư duy bị đóng hộp
Việc đi học và có bằng cấp cao (tuỳ quan niệm theo thời cuộc) cũng chỉ
là một hành vi đi học kiến thức của người khác để đáp ứng đòi hỏi của
một công việc nào đó. Bằng cấp cũng chỉ là một xác nhận đã trải qua một
quá trình tiếp thu kiến thức và rèn luyện về mặt tư duy. Vấn đề cơ bản
là người có bằng cấp đó có đóng góp được những giá trị mới cho lĩnh vực
chuyên môn riêng hay xã hội nói chung hay không. Tuỳ theo đòi hỏi của
công việc mà người làm việc phải đến lĩnh hội kiến thức tại các cơ sở
cung cấp kiến thức (cao đẳng, đại học, viện nghiên cứu,..) và sau khi
học được cấp giấy xác nhận (bằng cấp) hoặc có thể lĩnh hội kiến thức
qua những cách thức khác (học trong gia đình, người đã có nghề,
). Ví
dụ công việc làm (nghề) bác sĩ hiện nay chưa thể học ở nhà được cho nên
phải tới trường để lĩnh hội. Những nghề hiện nay như sửa xe máy hay
chăm sóc tóc của Việt Nam cũng có thể sẽ đến lúc phải tới cơ sở đào tạo
(công hoặc tư) để lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, cũng phải biết ngoại ngữ
và được cấp bằng mới có thể hành nghề được (ví dụ do yêu cầu kỹ thuật
và yêu cầu quản lý của xã hội tăng lên). Việc có bằng cấp hay không
chính là xuất phát từ yêu cầu của công việc và xã hội.
Ví dụ một người Thợ sửa xe máy cũng đòi hỏi phải có những kiến thức về
giải phẫu học, triệu chứng học về bệnh học và cách điều trị
cho chiếc xe máy tương tự như công việc của một Bác sĩ y khoa. Điều cơ
bản là người thợ sửa xe máy hay người bác sĩ đó có tạo ra được những
giá trị mới cho nghề (xã hội) hay không, còn nếu không thì giá trị công
việc của hai con người đó là riêng biệt, không thể so sánh hơn kém được
vì không thay thế cho nhau được. Một bác sĩ suốt đời chỉ lặp lại những
qui trình chữa bệnh như đã được học không thể mang lại giá trị cho xã
hội như một người thợ sửa xe máy nghĩ ra bộ số lùi cho xe máy.
Việc loại bỏ bằng cấp, học vị khỏi quan niệm về Trí thức có thể sẽ làm
một số người ngỡ ngàng, hoặc bất bình, nhưng nó sẽ đem lại giá trị thật
cho Trí thức, loại bỏ được thói hư danh và trên hết là thúc đẩy mọi cá
nhân phải nỗ lực trong việc tạo ra những giá trị mới cho nghề nghiệp,
cho xã hội, bất kể đang ở thang bậc nào của sự xác nhận về danh tiếng.
Đúng như Lewis Feur quan niệm: Không có học giả hay nhà khoa học nào
được gọi là Trí thức trừ khi người đó theo đuổi (hoặc biểu hiện) sự tìm
kiếm một tư tưởng (học thuyết) mới ('No scientist or scholar is
regarded as an intellectual unless he adheres to or seems to be
searching for an ideology).
Ngộ nhận xã hội có sự phân chia kiểu cơ học
Trong xã hội Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại một nhận thức còn phổ biến
về phân chia giai cấp kiểu cơ học như nông dân, công nhân, trí thức,
doanh nhân,..Đây chính là hậu quả từ quan niệm sai lầm về phân chia
giai cấp và đấu tranh giai cấp của học thuyết Marx.
Theo Marx, lịch sử xã hội loài người là lịch sử của đấu tranh một mất
một còn giữa các giai cấp khác nhau (chủ nô và nô lệ, kẻ thống trị và
bị trị,
). Theo Marx trong xã hội tư bản có hai giai cấp chính đối
kháng triệt tiêu nhau là giai cấp tư sản (người bóc lột) và giai cấp vô
sản (người bị bóc lột) và theo Marx trước sau thì giai cấp vô sản cũng
sẽ tiêu diệt giai cấp tư sản. Đối với Marx, Trí thức là một đội ngũ có
quan điểm không triệt để (dao động), gần giống kẻ bóc lột ( tư sản) vì
có thu nhập cao hơn giai cấp vô sản và cũng gần giống kẻ vô sản vì cũng
phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản. Từ quan điểm này những người
cộng sản (theo Marx) đã có định kiến coi thường người Trí thức và sử
dụng họ như một công cụ cho mục đích đánh đổ giai cấp tư sản (bóc lột).
Có thể có nhiều nguyên nhân khác, nhưng có lẽ đây là nguyên nhân cơ bản
đã gây ra hoặc bị lấy làm cớ trong các vụ đàn áp, trù dập, tiêu diệt
giới Trí thức (những người nhận ra sự tai hại của độc quyền về quyền
lực/và sai lầm của Marx) ở các nước cộng sản. Có lẽ sinh thời Marx và
những người theo Marx (một cách chân thành) đã không biết rằng xã hội
là một tổng thể trong quá trình phát triển luôn có sự vận động ( mâu
thuẫn, xung đột, nương tựa, hợp tác) và có một cơ chế để mọi cá nhân,
tầng lớp, giai cấp có thể dựa vào để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột
trong tinh thần ôn hòa, bảo tồn cho nhau mà vẫn đảm bảo cho xã hội phát
triển, đó chính là tư tưởng Nhà nước Pháp quyền hay chính thể Dân chủ.
Theo quan điểm của Nhà nước Pháp quyền, mọi người dân sinh ra đều được
tôn trọng về nhân phẩm như nhau để trở thành tư cách công dân với những
quyền và nghĩa vụ như nhau, cả về ý nghĩa tối cao về tinh thần (cùng do
Thượng đế hay Thiên nhiên sinh ra). Nhưng như tính chất đa dạng (đa
nguyên) của giới tự nhiên (mà con người là một thành phần), các con
người khác nhau sẽ có những khả năng, thiên hướng khác nhau và với điều
kiện khác nhau về môi trường sống mà những công dân đó sẽ tìm cho mình
các công việc khác nhau trong xã hội như làm trồng trọt hay buôn bán,
làm nghề thủ công, chủ nhà máy, người làm thuê, người viết sách, viết
báo, luật sư, kỹ sư, nhạc sĩ, ca sĩ, bộ trưởng, thủ tướng, chủ tịch
đảng
theo nhu cầu của xã hội. Quá trình phát triển của loài người cho
thấy dù chúng ta có phân loại hay không, xã hội loài người cũng tự hình
thành nên những nhóm người, những cộng đồng nhỏ khác nhau cùng chia sẻ
chung với nhau về một số đặc điểm thuộc về nghề nghiêp hay quan niệm về
tinh thần (tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa, chính trị
) tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn phát triển.
Sự phân chia ra các tầng lớp hay giai cấp hay đội ngũ chỉ có ý nghĩa
với những người thích quan sát (xã hội học chẳng hạn), ban đầu chỉ xuất
phát từ khát khao hiểu biết về cộng đồng của mình và sau đó là phục vụ
cho các mục đích khác (như quản lý cộng đồng, tác động thay đổi hành
vi,
). Trong khi các cá nhân khác nhau (dù được phân nhóm, phân giai
cấp) đó vẫn là những đồng bào, những đối tác của nhau, thậm chí là
những bạn bè, anh em, cha con của nhau trong sự liên đới của xã hội.
Hơn nữa, sự phân tách giữa các nhóm (tầng lớp hay giai cấp) đó chỉ có
tính tương đối vì luôn có sự hoán chuyển, biến đổi qua lại giữa các
nhóm (tầng lớp) với nhau ở nhiều mức độ khác nhau và xã hội càng tiến
về hiện đại thì tính hoán chuyển, thay đổi nội tại và giữa các tầng lớp
càng lớn (thời xưa, để từ nô lệ trở thành chủ nô là điều gần như không
thể, nhưng ngày nay một người nông dân dễ dàng trở thành một công nhân
trong các nhà máy công nghiệp hay một công nhân có thể trở thành ông
chủ của một doanh nghiệp, một nông dân có thể trở thành một người làm
việc văn phòng hay ngược lại, một nông dân hay công nhân cũng có thể
trở thành một ông chủ quản lý công ty lớn hay một nhà khoa học, một
doanh nhân có thể làm tổng thống). Những người không thích (hoặc chưa
có khả năng) vận não nhiều thì thực hiện những việc (vận hành máy dệt,
lắp ráp linh kiện, công việc văn phòng,
) cho những người chỉ thích vận
não (nhà thiết kế, nhà quản lý, lãnh đạo,
). Sự thay đổi nghề nghiệp,
vị trí lao động của mỗi cá nhân hoàn toàn là có thể. Sự phân công, điều
chỉnh lao động bình đẳng như thế đã được thể hiện ở mức độ toàn cầu như
các công ty nội địa thuê nhân viên hay người quản lý ngoại quốc hay các
quốc gia phát triển thuê người từ các nước kém phát triển sang làm
những việc mà người lao động nước đó không muốn làm nữa hoặc chuyển
việc ra nước ngoài (out-sourcing), một số quốc gia chỉ sản xuất những
sản phẩm có lợi thế.
Việc phân chia lao động đó hoàn toàn do sự vận động, phát triển của xã
hội (và giữa các xã hội) quyết định trên cơ sở qui luật tương hỗ (cạnh
tranh và hợp tác). Các quan hệ được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận về
lợi ích được chia sẻ trước sự bảo vệ của luật pháp. Người làm công
(công nhân, công chức,..) có quyền bình đẳng trong việc làm hay không
làm cho người thuê lao động (ông chủ, cơ quan công,
). Đối với những
người có các chức vị như Thủ tướng, Tổng thống hay Bộ trưởng (trong
chính thể dân chủ) cũng chỉ là những người làm thuê cho cộng đồng có
thời hạn và có trách nhiệm đối với người thuê lao động (các cử tri),
như mọi công việc khác. Các vị trí Chủ tịch đảng hay Tổng bí thư là vấn
đề nội bộ của các đảng chính trị, họ không có quyền quyết định các vấn
đề chung của xã hội hay sử dụng tiền thuế của dân chúng. Trên tinh thần
đó không thể có khái niệm bóc lột hay giai cấp thống trị hay bị trị như
Marx nêu ra.
Sự bất công (mất cân bằng) trong quan hệ là vấn đề luôn nảy sinh trong
mọi quá trình phát triển sẽ được điều chỉnh giữa các phía xung đột qua
việc tự thỏa thuận lại (làm lại khế ước) với nhau bằng những phương
tiện có sức mạnh ngang nhau trong việc tranh luận, mặc cả (người làm
thuê ( công nhân, thủ tướng) sẽ là quyền được khước từ làm việc (bãi
công, từ chức); người thuê lao động (ông chủ, nhân dân) sẽ là quyền
khước từ trả lương hay thải hồi) với sự giám sát của pháp luật để đảm
bảo sự công bằng cho các bên. Như vậy điểm mấu chốt để đảm bảo cho sự
công bằng của sự phân công lao động hay sự bình đẳng giữa các nhóm,
cộng đồng khác nhau trong xã hội chính là hệ thống pháp luật không
thiên vị. Các cá nhân trong xã hội, suy cho cùng, thì dù được gọi là
công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân hay lãnh đạo thì cũng đều là
con người lao động tạo ra sản phẩm để nuôi sống mình và đóng góp vào
chu trình sản suất, phân phối của xã hội. Sự bất công (hay mất cân
bằng) của xã hội là vấn đề không bao giờ có thể hết (vì tính đa nguyên,
khác biệt của giới tự nhiên), nhưng có thể giải quyết thông qua tranh
luận và thỏa thuận các biện pháp được các bên chấp nhận và luôn bỏ ngỏ
cho mọi sự thay đổi có thể. Hệ thống an sinh xã hội và các tổ chức từ
thiện, phi chính phủ (NGO) của các nước theo quá trình phát triển tư
bản là một ví dụ điển hình trong việc tạo ra cơ chế để lập lại một số
cân bằng cho xã hội (làm giảm chênh lệch thu nhập, chia sẻ với những
người kém may mắn, khó khăn). Do đó việc tiêu diệt, triệt hạ một giai
cấp, một thành phần nào của con người (như Marx chủ trương) là sai lầm
về học thuật và nguy hại cho nhân loại.
Ngộ nhận Trí thức như một giai cấp (đội ngũ) riêng biệt
Theo lập luận ở phần trên đây, Trí thức không phụ thuộc vào bằng cấp,
hay nghề nghiệp mà vấn đề chính là sự đóng góp những giá trị mới cho
nghề nghiệp ( ở góc nhìn hẹp) và cho xã hội ( ở góc nhìn rộng). Như vậy
nếu quan niệm điều cốt lõi của một người được gọi là Trí thức là những
đóng góp của người đó về mặt trí tuệ (sáng tạo, sáng kiến, phát minh)
cho cộng đồng thì chúng ta có thể thấy con người Trí thức luôn tiềm ẩn
trong mọi cá nhân (thấp hèn hay sang giàu, quyền lực hay dân đen, có
bằng cấp hay thất học). Do đó việc nhìn nhận Trí thức như một bộ phận
riêng tách biệt với các thành phần khác của xã hội như nông dân, công
nhân, doanh nhân,
là không thích hợp, sẽ dẫn đến những phân biệt đối
xử, thói hư danh, sự sai lệch trong đánh giá sức mạnh đóng góp của cá
nhân và các cộng đồng trong quá trình phát triển của xã hội. Cần phải
nhìn nhận các cộng đồng, các thành phần khác nhau đang tồn tại trong xã
hội chỉ là sự phân công lao động theo những đòi hỏi của xã hội và những
thành phần đó luôn có sự vận động, thay đổi, nương tựa vào nhau và tất
cả đều có những khả năng và cần (phải) đóng góp về tri thức, trí tuệ
cho xã hội theo cách của riêng họ. Mọi cá nhân dù làm ở những công việc
khác nhau, vị trí khác nhau đều ít hay nhiều đều phải dùng đến trí tuệ,
khả năng tư duy, sáng tạo trong công việc. Peter Drucker (được coi là
cha đẻ của ngành quản trị hiện đại) còn đề cao vai trò đóng góp trí
tuệ của những người làm thuê ở cấp thấp trong một tổ chức, khi ông cho
rằng Không chỉ giới lãnh đạo cấp cao mà các nhân lực ở mọi cấp cần
tham gia vào quá trình ra quyết định (Workers at all levels should
take part in decision-making process not just top managers) và ông còn
đưa ra khái niệm Công nhân Trí tuệ ( knowledge worker), có ý nhấn mạnh
khả năng sáng tạo, cải tiến luôn có ở mỗi cá nhân.
Như vậy vấn đề không phải là cần phải có một giai cấp hay một đội ngũ
trí thức mà chính là làm sao để trí tuệ của mỗi cá nhân được tự do phát
triển, nảy nở theo thiên hướng và mong muốn của cá nhân đó. Khi đó xã
hội sẽ có được không phải một đội ngũ trí thức (nếu muốn phân loại) mà
là có được cả một xã hội có xung lực trí thức vì tất cả mọi cá nhân đều
hào hứng đưa ra mọi ý tưởng, tư tưởng mà không phải e ngại bất kỳ sự đe
doạ nào. Chính những quốc gia, vùng đất thịnh vượng, văn minh nhất hiện
nay trên trái đất cũng đồng nghĩa với những nơi tư duy của con người có
sự tự do nhất. Ở những nơi đó không thấy có những đề án hay dự án xây
dựng đội ngũ trí thức hay giai cấp trí thức ngoài việc đảm bảo cho tư
duy, suy nghĩ của người dân được tự do và tự do hơn nữa bằng cách duy
trì và bảo vệ quyền nói, quyền viết, quyền trao đổi mọi suy nghĩ của
mọi người dân trong sự cảnh giác với những yếu tố có thể xâm phạm đến
các quyền đó. Và mọi quốc gia cũng chỉ bắt đầu có sự phát triển, tiến
bộ khi tư duy của con người ở đó bắt đầu được tự do hay tự do hơn. Còn
nếu muốn có một định nghĩa (khái niệm) riêng về con người Trí thức thì
định nghĩa đó phải có khả năng áp dụng cho tất cả mọi người, không phụ
thuộc vào các đặc điểm như nghề nghiệp, địa vị, chính kiến hay tín
ngưỡng.
III. Tính phức hợp của tri thức
Để có sáng tạo, con người cần phải có tri thức. Và sáng tạo của người
này sẽ trở thành tri thức của người kia trong chu trình trao đổi, hấp
thụ, sáng tạo tri thức.
Trong khoảng 50 năm qua, quan niệm về tri thức (những hiểu biết) của
con người đã có sự thay đổi lớn. Trước đây, chúng ta thường liên tưởng
tri thức là những gì có thể lượng hóa, có thể diễn đạt bằng những con
số, công thức, những biểu hiện qua chữ viết, qua các biểu hiện vật chất
một cách hữu hình. Ngày nay, quan niệm về tri thức con người đã mở rộng
sang nhiều lĩnh vực không thể biểu hiện bằng cách hữu hình. Edgar Morin
nhấn mạnh tri thức có tính chất phức hợp (epistemologie complex) và đưa
ra một định nghĩa tri thức: tri thức là một hiện tượng nhiều chiều,
theo nghĩa cùng một lúc nó là vật lý, sinh học, não, tinh thần, tâm lý,
văn hóa, xã hội, không tách rời nhau ( Edgar Morin, Phương pháp 3
Tri thức về Tri thức. Nxb. Đại học quốc gia Hà nội, 2006).
Ngay như khái niệm về sự thông minh của con người thông thường được
lượng hóa qua cách thăm dò hệ số IQ (Intelligence Quotient) đã từng tồn
tại khá lâu, đến nay cũng đã được bổ sung thêm một chỉ số khác là EQ
(Emotion Quotient hệ số xúc cảm) để lượng hóa rõ hơn về khả năng của
con người. Quan niệm mới (rộng mở) về tri thức cho thấy sẽ không thể có
một tiêu chuẩn, một qui phạm nào có thể diễn đạt một cách đầy đủ và
chính xác về tri thức của con người. Hay nói ngược lại, bất kỳ một ý
muốn tạo ra những qui chuẩn, những khuôn mẫu để xác định tri thức đều
dẫn đến làm hạn chế tri thức. Thực tế đã có những ý tưởng (tri thức)
mới, hấp dẫn nhưng mang lại nhiều tai hại cho con người và có những ý
tưởng bị cấm (do bị coi là có hại) nhưng thực tế lại có hệ quả tốt, đây
là những khả năng đều có thể xảy ra ở mọi xã hội con người. Để tránh
những sai lầm ngộ nhận (ở cả hai chiều đó) chỉ có cách duy nhất là để
cho mọi ý tưởng, ý kiến được phát biểu, bàn luận một cách tự do trong
xã hội và quyết định cuối cùng có thực hiện ý tưởng đó hay không phải
là kết quả của sự bàn luận tự do đó. Dẫu có là ý tưởng có hại thì cũng
chưa thể gây hại nếu nó dừng lại ở việc bàn luận, hơn nữa việc bàn luận
sẽ mang đến cho trí óc nói chung sự phong phú hơn về hiểu biết và sáng
suốt hơn về nhìn nhận.
IV. Về Tư tưởng và Ý tưởng
Ở đây xin giới thiệu 03 định nghĩa về Trí thức có nhấn mạnh tới Tư tưởng và Ý tưởng:
1. Trí thức là người gắng dùng trí tuệ(tư duy) của mình để làm việc,
nghiên cứu, phản ánh, suy luận hoặc đặt nghi vấn và giải đáp các nghi
vấn về các vấn đề rộng lớn khác nhau của tư tưởng ( ý tưởng) (An
intellectual is one who tries to use his or her intellect to work,
study, reflect, speculate, or ask and answer questions about a wide
variety of different ideas.). [Wikipedia, Intellectual, ngày
02/06/2008].
2. Không có học giả hay nhà khoa học nào được gọi là Trí thức trừ khi
người đó theo đuổi (hoặc biểu hiện) sự kiếm tìm một tư tưởng (học
thuyết) mới ('No scientist or scholar is regarded as an intellectual
unless he adheres to or seems to be searching for an ideology). [Lewis
Feur (1913-2002)].
3. Trí thức là người truyền bá tư tưởng, ý tưởng . [Nguyễn Quang A].
Ở đây xin nhấn mạnh từ Tư tưởng và Ý tưởng (tạm coi như tương
đương lần lượt với Ideology và Idea của tiếng Anh). Trong tiếng Việt
Tư tưởng thường nhằm nói đến những suy nghĩ có tính hệ thống và khá
trừu tượng về những vấn đề lớn của con người (như về quan hệ xã hội, về
phát triển nền văn hóa,
). Ý tưởng hay ý nghĩ, ý kiến thường
nói đến những suy nghĩ đơn giản hơn, có tính cụ thể, dễ hiểu (như ý
tưởng làm thêm vành vải chống nắng cho mũ bảo hiểm, ý tưởng đào thêm
một con kênh
). Tuy nhiên, về mặt đóng góp cho tiến bộ của xã hội, khó
có thể nói tư tưởng có giá trị hơn ý tưởng. Ví dụ phát minh ra động
cơ hơi nước của James Watt vào thế kỷ 19 là một ý tưởng so với những
tư tưởng của các nhà Khai sáng như J.J.Rousseau hay Montesquieu,
nhưng chúng ta khó có thể nói ý tưởng của James Watt kém hơn những
tư tưởng của các nhà Khai sáng trong việc tạo ra động lực phát triển
cho loài người. Biết bao nhiêu những cộng đồng người, nhờ có sức mạnh
của những động cơ do J.Watt nghĩ ra, đã cắt ngắn được những đêm dài u
tối vì những tập quán còn man khai. Cũng tương tự như thế, ý tưởng
tạo ra chiếc bánh xe (tròn) cách đây khoảng 6.000 năm không thể nói là
kém những tư tưởng của Socrates, Plato hay Aristotle thời Hy lạp cổ
đại. Những phát minh nhỏ như chiếc ghim dập giấy (staple) hay cái giấy
dính nhắc việc bé xíu (stick-on) cũng đã chứng tỏ là một trong những đồ
dùng khó có thể thiếu được trong các văn phòng hiện đại cùng chiếc máy
tính tinh xảo. Những ý tưởng cải tiến về tiện nghi cho con người đã
thúc đẩy những cải tiến về tư tưởng triết học cho con người và ngược
lại. Và có cải tiến nào không phải là sản phẩm của tư duy? Như thế,
những ý tưởng, ý kiến hay tư tưởng lớn, nhỏ đều có thể tạo ra những giá
trị riêng biệt không thể thay thế và cùng nhau thúc đẩy cho tiến bộ xã
hội. Do đó, để xã hội, cộng đồng có thể huy động được sức mạnh tư duy,
trí tuệ của mọi thành viên thì buộc phải khuyến khích, trân trọng mọi ý
kiến, ý tưởng, tư tưởng, không phụ thuộc vào nguồn gốc, thành phần, tín
ngưỡng, chính kiến, giai cấp (nếu có) của người sỡ hữu, trình bày ý
kiến, ý tưởng, tư tưởng đó.
V. Tự do chính trị mới có Tự do tư duy
Đến đây chúng ta có thể đồng ý với nhau, để có con người Trí thức hay
để có một xã hội Trí thức thì điều kiện cần là phải đảm bảo cho tư duy
của con người được tự do thể hiện hay nói một cách khác con người có
thể nói, viết, trao đổi công khai tất cả những gì con người nghĩ mà
không phải sợ hãi.
Con người cũng là một loại sinh vật (động vật cao cấp) nên con người
cũng có bản năng sinh tồn. Bản năng sinh tồn làm con người biết (phải)
lựa chọn khả năng giúp mình sống sót hoặc tránh những nguy hiểm hơn cho
tính mạng của mình. Do đó khi bị đe doạ hoặc cảm thấy không an toàn,
con người nói chung sẽ hướng về những lựa chọn ít đe doạ hơn hoặc ít
không an toàn hơn.
Khi không có tự do chính trị hay khi quyền lực quản lý xã hội ( quyền
định ra pháp luật, bảo vệ pháp luật, phán xét về công lý,
) nằm trong
tay một lực lượng riêng biệt của xã hội thì tư duy của con người sẽ
luôn phải đối diện với sự đe doạ từ phía quyền lực (độc quyền) quản lý
xã hội bởi:
1. chính những người cầm quyền cũng là những con người có tư duy riêng
biệt nên sẽ không thể tránh có những khác biệt với những tư duy của
người khác, nhưng vì là những người có quyền lực trong tay (cảnh sát,
quân đội,
) nên sự đối chọi về sức mạnh tinh thần ( lý lẽ) sẽ dễ
(thường) trở thành đối chọi về sức mạnh vật lý, khi đó những người có
lý lẽ nhưng không có quyền lực sẽ trở nên yếu thế, bị rơi vào tình
trạng bị đe doạ về vật lý (lợi ích vật chất, tính mạng)
2. Tư duy của con người là đa dạng nên sẽ có cả những ý tưởng mới về xã
hội, về chính trị tác động vào hệ thống quyền lực làm ảnh hưởng tới
quyền lợi của những người đang nắm quyền lực, khi đó những người sở hữu
những ý tưởng đó sẽ không có bất kỳ phương tiện gì để đảm bảo cho mình
được bảo vệ trước sự phản đối có tính áp đặt hoặc trấn áp của những
người có quyền lực.
Như thế, cho dù có những ngoại lệ, con người nói chung sống trong một
xã hội mà quyền lực quản lý xã hội bị độc quyền thì tư duy của họ luôn
ở trong tâm trạng bất an, tự vệ. Mọi ý kiến phát ra, trao đổi, thậm chí
cả những suy nghĩ luôn phải cân nhắc xem có bị đối nghịch hay gây phật
ý giới cầm quyền hay không. Nói một cách khác, con người sống trong một
thể chế chính trị độc quyền (độc đảng) sẽ không thể có tự do cho tư
duy. Không có tự do cho tư duy thì không thể phát triển đầy đủ được Trí
thức. Không có tự do cho tư duy thì mọi tự do khác như tự do báo chí,
tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tôn giáo,
cũng chỉ là hình thức,
vì mọi biểu hiện của tự do vừa kể cũng đều là kết quả của tự do tư duy
(được thể hiện bằng bài viết, phát biểu, trao đổi, gặp gỡ, hội họp,
liên kết, thờ phụng,
). Sự tù túng tư duy làm suy yếu trí lực đối với
toàn xã hội, trong đó có cả những người đang nắm quyền lực độc quyền.
Như vậy, muốn thúc đẩy để con người Trí thức phát triển cần phải thúc
đẩy để có Tự do chính trị.
VI. Tự do tư duy là nền tảng cho Nhân phẩm
Khả năng tư duy và thể hiện tư duy bằng lời nói, chữ viết của con người
là một đặc điểm quan trọng để con người tự cho thấy đã tiến hóa cao hơn
và là đặc điểm duy nhất để con người có thể hãnh diện và thể hiện được
sự hãnh diện hơn các loài vật khác. Đó chính là nền tảng của Nhân phẩm
Phẩm chất đặc thù, có tính phân biệt giữa con người và các loài vật
khác. Vậy, nếu như con người không thể thực hiện được phẩm chất đó bất
kỳ vì lý do gì, ý nghĩa con người của cái vật thể sống đó chắc chắn
không còn.
Chúng ta hãy thử hình dung, ngay ngày mai loài người chúng ta trở nên
không thể phát ra âm thanh (mà chúng ta vẫn gọi là lời nói) để diễn tả
những điều đầu óc ta đang muốn diễn đạt (một nhu cầu về vật chất cho
bản thân, một nhu cầu nói lên sự đồng ý, sự không đồng ý, một sự chia
sẻ về ý tưởng,
), đồng thời chúng ta lại cũng không thể thể hiện những
suy nghĩ đó qua những hình tượng (chữ viết), và những cử chỉ hành động
của chúng ta cũng chỉ bị giới hạn trong khuôn khổ rất nhỏ hẹp ( như đi,
đứng, ngồi, nằm), thử hỏi lúc đó một người ngoài hành tinh sẽ có gì để
nhận thấy tư duy của chúng ta (con người) đã phát triển hơn tư duy của
một chú ngựa. Lấy cái gì để người ngoài hành tinh đó nhận ra sự cao cấp
hơn của cái con vật (đã tự gọi là con người) đó so với các loài vật
khác. Những giả định suy thoái nói trên của con người có khác gì quyền
nói, quyền viết, quyền thể hiện của con người đang bị hạn chế, đe doạ?
Nếu giả định trên đây mang lại một cảm giác bị xúc phạm cho một cá nhân
con người nào đó, thì cũng là thêm một bằng chứng cho thấy Nhân phẩm
của con người không thể tách rời khỏi sự tự do trong tư duy (được nói,
được viết, được trao đổi mọi điều mình nghĩ).
Nhu cầu và là khả năng đặc thù có thể chia sẻ tư duy của con người
chính là nguyên nhân sâu sa của những tiến bộ liên tục trong việc tạo
ra các phương tiện, kỹ thuật chia sẻ thông tin (tư duy) ( chữ viết,
giấy, kỹ thuật in, bưu điện, điện thoại có dây, radio, ti vi, máy
xerox, thông tin di động, vệ tinh, internet, sách điện tử, TV di
động,
) và sẽ còn tiếp tục phát triển, không chỉ để mang lại sự thuận
tiện hơn nữa trong việc thể hiện, chia sẻ tư duy, tri thức của con
người, mà điều đó cũng đồng nghĩa với việc giúp cho con người dễ dàng
hơn trong việc bảo vệ nhân phẩm, chống lại các thế lực muốn kìm hãm tự
do tư duy của con người.
VII. Tôn vinh, bảo vệ Nhân phẩm có tính toàn cầu
Con người ngày càng thấy rõ sự liên đới lẫn nhau trên phương diện toàn
cầu, dễ thấy nhất là những vấn đề kinh tế, thương mại và gần đây là
những tác động có hại cho môi trường. Và vấn đề Nhân phẩm đang ngày
càng trở thành những vấn đề phổ quát và cụ thể hóa hơn (từ Uỷ ban Nhân
quyền Liên hợp quốc năm 1946 đến Tuyên ngôn về Nhân quyền năm 1948;
Công ước quốc tề về quyền Dân sự, Chính trị năm 1982; Hội đồng nhân
quyền LHQ năm 2006. Một trong những tiêu chuẩn bắt buộc của các quốc
gia được xem xét, kết nạp vào Liên minh châu Âu là phải tôn trọng Nhân
quyền; các báo cáo tường trình hàng năm về Nhân quyền toàn cầu; các Đối
thoại Nhân quyền,
)
Với cái nhìn tổng thể, các quốc gia, dân tộc khác nhau đang cùng sống
trên trái đất cũng chỉ như những gia đình khác nhau trong một cộng đồng
con người có cùng những giá trị phổ quát như nhau gọi là Nhân phẩm. Mỗi
gia đình đó đều phải có trách nhiệm đối với bản thân trong việc phát
triển gia đình riêng của mình và cũng không thể tách rời sự liên đới,
tương tác, trách nhiệm với các gia đình khác. Sự lên tiếng, đề nghị,
thậm chí can thiệp vào vấn đề Nhân quyền của quốc gia này với quốc gia
kia cũng chính là thể hiện sự liên đới, tương tác, trách nhiệm đó.
Về mặt Nhân phẩm, bất cứ gia đình tử tế nào cũng không thể không phẫn
nộ, bức xúc trước đối xử thiếu lễ độ, tệ bạc, thô bạo của người hàng
xóm bên cạnh (hay của gia đình khác) đối với bố mẹ, anh chị em của
người hàng xóm đó (hay gia đình khác đó). Về mặt con người, không ai
lại chấp nhận đạo đức của một người lấy lý do là chuyện riêng của gia
đình để phản đối những phê phán của người ngoài đối với sự tệ bạc, thô
bạo đối với chính bố mẹ, anh chị em của người đó. Là con người tử tế,
ai cũng muốn Nhân phẩm của đối tác, bạn bè của mình được tôn trọng bởi
con cái, anh chị em của họ. Đó chính là những lý do sâu thẳm khi ngày
càng có nhiều quốc gia cùng chia sẻ quan niệm việc vi phạm Nhân quyền ở
một quốc gia khác không thể là vấn đề chỉ của riêng quốc gia có vi phạm
đó.
Vấn đề Nhân quyền chính là một trong những chỉ dấu trung thực cho thấy
mức độ tử tế, văn minh (sự coi trọng Nhân phẩm) của đối tác trong quan
hệ giữa các quốc gia với nhau. Chỉ có những quan tâm và thúc đẩy về
Nhân quyền mới có thể làm cho các mối quan tâm khác (xuất khẩu, nhập
khẩu, đầu tư,
) vượt qua được cấp độ vật chất, vốn cũng có ở các loài
vật khác. Sự can thiệp nhân văn này cũng được ông cha ta chia sẻ bằng
câu tục ngữ phê phán thái độ thờ ơ, quay lưng trước nỗi đau khổ của
người khác: Cháy nhà hàng xóm mà cứ bình chân như vại!. Dĩ nhiên, mỗi
thành viên trong một gia đình, hay mỗi người dân trong một quốc gia
phải ý thức được hoặc tiến đến ý thức được trách nhiệm tôn vinh và giữ
gìn phẩm giá làm người, trước tiên, phải thuộc về mình. Nhưng ở trên
tất cả, Nhân phẩm (Nhân quyền) phải được nhấn mạnh có tính phổ quát và
cần được tôn vinh, bảo vệ ở mức độ toàn cộng đồng nhân loại.
VI. Sự chà đạp Nhân phẩm là phổ quát trong chế độ chính trị phi dân chủ (độc đảng, độc tài)
Như trên đã đề cập, điều đương nhiên là nhân phẩm của người dân trong
chính thể phi dân chủ (quyền lực quản lý xã hội bị độc quyền trong tay
một nhóm người) bị coi thường, chà đạp, vì quyền nói, quyền viết, quyền
trao đổi những tư duy, suy nghĩ của người dân luôn bị dè chừng, sách
nhiễu bởi giới cầm quyền. Nhưng sự chà đạp nhân phẩm trong chính thể
dân chủ không chỉ dành riêng cho người dân. Mọi con người trong chính
thể phi dân chủ, kể cả những người đang hoăc đã nắm quyền lực của hệ
thống phi dân chủ , bất kỳ đẳng cấp, đều bị chà đạp về nhân phẩm. Vì
một lẽ đơn giản, cơ chế vận hành của hệ thống quyền lực phi dân chủ
được xây dựng không phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm (tôn
trọng ý kiến khác biệt, tôn trọng tự do của tư duy). Do đó, không sớm
thì muộn những người vì hoàn cảnh hay vụ lợi đã tham gia để dựng nên
chế độ chính trị phi dân chủ cũng sẽ cảm nhận được là nạn nhân của chế
độ phi dân chủ. Bởi bất kỳ ai là con người biết tư duy cũng sẽ có lúc
muốn nói lên tiếng nói lương tâm của mình.
Nhưng cơ chế quyền lực phi dân chủ (độc đảng, độc tài), về bản chất, vì
đã lấy lợi ích của cá nhân, phe nhóm làm mục đích tồn tại, nên cái cơ
chế quyền lực phi dân chủ, bản thân nó, đã không tương thích với tiếng
nói lương tâm, không tương thích với lý lẽ của tư duy. Hiện tượng gần
đây tại Việt Nam có vài góp ý chân thành của một số cựu lãnh đạo cao
cấp của Đảng cộng sản Việt Nam (có vị còn được coi là đại công thần)
đối với một số vấn đề như xây dựng nhà Quốc hội, qui hoạch thủ đô cũng
đều bị bác bỏ một cách thiếu tôn trọng (ngăn cản việc phổ biến, không
có phản hồi) là những ví dụ minh hoạ còn nguyên tính thời sự cho sự chà
đạp nhân phẩm có tính phổ quát trong chế độ phi dân chủ. Đó là trường
hợp đối với những người dám nói lên tiếng nói lương tâm. Còn đối với
những con người trong hệ thống quyền lực mà lấy sự im lặng hay sự ủng
hộ cho chế độ phi dân chủ làm lẽ sống thì dĩ nhiên đã tự làm mất đi
Nhân phẩm của bản thân vì Nhân phẩm không bao giờ cho phép con người
sống dựa vào sự chà đạp Nhân phẩm người khác.
Chính đặc tính chà đạp Nhân phẩm có tính phổ quát của chế độ chính trị
phi dân chủ ( độc đảng, độc tài) là nguyên nhân sâu sa của sự phá sản
trong chương trình Xây dựng và Chỉnh đốn Đảng, để chống lại sự suy
thoái của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bất kỳ một đảng chính trị
nào hoạt động trong cơ chế chính trị độc quyền như hiện nay tại Việt
Nam cũng không tránh được sự suy đồi như Đảng cộng sản Việt Nam hiện
nay, chỉ bởi cơ chế chính trị đó không khuyến khích và bảo vệ Nhân phẩm.
Nhân phẩm là giá trị không thể đánh đổi hoặc thay thế được bằng bất kỳ
giá trị nào khác dù là những danh hiệu, tước hiệu được coi là cao quí
nhất hay kể cả những vật thể vĩ đại như hầm mộ, lăng mộ, đền đài, tượng
đài, tường thành cũng không thể làm tăng giá trị cho Nhân phẩm(1). Con
người không thể có nhân phẩm khi khuất phục lương tâm người khác bằng
sự hăm doạ, bạo lực. Con người cũng không thể giữ được nhân phẩm khi
lương tâm mình chịu khuất phục không phải bởi những lý lẽ đúng đắn hơn,
bởi tinh thần cao thượng hơn mà chỉ bởi sự e ngại cho sự bảo toàn những
nhu cầu vật chất của thân xác con người, mà một ngày nào đó cũng sẽ trở
thành cát bụi như mọi sinh vật khác.
Những công trình vật chất gây kinh ngạc con người như Kim tự tháp Ai
cập, Hầm mộ Tần Thủy Hoàng hay Vạn Lý Trường Thành cũng không thể làm
cho quốc gia, đất nước đó trở nên văn minh, hay làm cho những con người
sở hữu, xây dựng những công trình đó trở nên bất tử hay được kính
trọng. Trong khi chỉ bằng cách áp dụng những tư duy tôn vinh Nhân phẩm
con người của Jean Jacques Rousseau, của Montesquieu, của Thomas
Jefferson, của James Madison, của John Stuart Mill, của Albert
Einstein, của Đức Phật, của Đức Chúa,
đã đưa nhiều dân tộc, quốc gia bé
nhỏ và không ít trong số họ cách đây không lâu vẫn còn u tối, trở thành
những dân tộc, quốc gia giàu có về vật chất, hùng mạnh về tinh thần và
tràn đầy tình yêu thương, tôn trọng phẩm giá con người. Và chỉ bằng
cách nỗ lực góp phần vào việc tôn vinh, bảo vệ và đấu tranh để Nhân
phẩm của cộng đồng con người được tôn trọng, những con người vừa kể đã
trở thành bất tử.
VII. Lời bạt cho bài viết
Bài viết này xuất phát từ cảm hứng khi biết tin sắp tới Hội nghị trung
ương lần 7 khóa X của Đảng cộng sản Việt Nam tới đây sẽ bàn luận và ra
nghị quyết về vấn đề Trí thức. Ngày 16 tháng 04 vừa qua ông Tô Huy Rứa
- Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch
Hội đồng Lý luận Trung ương có phát biểu: Trong giai đoạn hiện nay,
vấn đề trí thức phải được đặt ra và giải quyết một cách có hiệu quả với
tầm tư duy mới, đáp ứng những yêu cầu mới. Đảng phải thể hiện tầm trí
tuệ lãnh đạo đối với trí thức. Đảng và Nhà nước phải có sự quan tâm đầy
đủ hơn đối với trí thức. Để làm tốt điều này, chúng ta phải đánh giá
đúng đội ngũ trí thức, nhằm thu hút, tập hợp, đoàn kết, phát huy toàn
diện năng lực, tài năng của trí thức, nhất là đối với hiền tài, nhân
tài của đất nước. Người viết bài này hoàn toàn chia sẻ với câu nói
chúng ta phải đánh giá đúng đội ngũ trí thức, nhằm thu hút, tập hợp,
đoàn kết, phát huy toàn diện năng lực, tài năng của trí thức, nhất là
đối với hiền tài, nhân tài của đất nước.
Một điều rõ ràng (nếu bàn luận công khai) hệ thống chính trị hiện nay
của Việt Nam không phải là hệ thống chính trị dân chủ. Đây là hệ thống
chính trị độc đảng, độc tài, Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền về tất cả
quyền quản lý xã hội, quyền điều hành đất nước. Nếu quan niệm một hệ
thống chính trị như một hệ thống máy móc cơ học, thì việc gửi góp ý hay
đưa ra những đề nghị là một hành động thiếu lý trí. Tuy nhiên, ngay cả
một hệ thống quyền lực độc tài, thì những con người đang duy trì hệ
thống quyền lực độc tài đó cũng là con người với những tri thức khác
nhau, mà tri thức, như đã nói ở trên, là một hệ thống phức hợp. Hơn
nữa, nhìn tận cùng của vấn đề, dân chủ hóa hệ thống chính trị độc tài
là phải thay đổi cho được cấu trúc và cơ chế vận hành của hệ thống
quyền lực công, chứ không phải cứu cánh của nó là thay đổi những con
người của hệ thống đó. Do đó những chia sẻ trên đây về Trí thức, Tự do
tư duy, Tự do chính trị, Nhân phẩm, mặc dù có thể hoàn toàn xa lạ với
hệ giá trị của hệ thống chính trị độc đảng, độc tài, vẫn có thể có được
những chia sẻ từ những người đang nằm trong hệ thống quyền lực đó. Đó
chính là lý do người viết trân trọng viết lời tặng tới Ban chấp hành
trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Phạm Hồng Sơn
Nhà 21 ngõ 72B Thụy Khuê- Hà nội
09/06/2008
(1) Nhà văn Nguyễn Khải trước khi qua đời có viết Tôi cũng được giải
thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia (giải thưởng Hồ Chí Minh-người
trích ghi chú), nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc
chả còn ai nhớ tới mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì
văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán
cân. ( Nguyễn Khải Đi tìm cái tôi đã mất, 2006).