DÒNG CHÚA CỨU THẾ - XỨ THÁI HÀ VÀ NHỮNG CÂU HỎI TẠI SAO J.B. Nguyễn Hữu Vinh Thái Hà, những động thái khác lạ
Trong những ngày gần đây, giáo dân Thái Hà đã đưa ảnh, tượng Đức Mẹ vào
khu đất mà họ đang đòi lại. Nhiều tháng nay họ đã tập trung cầu nguyện
bên ngoài hàng rào, biến một đoạn ngõ phố thành “Phố Đức Bà” với vô vàn
thánh giá, ảnh tượng và hương nến được treo trên… hàng rào dây thép
gai. Họ đã ngăn chặn việc mua bán, sang nhượng, quản lý của các cơ quan
đang sử dụng khu đất nhưng đã “vi phạm Luật Đất đai năm 2003 và các quy
định của Thành phố về quản lý, sử dụng đất đai”. (Theo Công văn số
4213/UBND-NNĐC ngày 2/7/2008 của UBND Thành phố Hà Nội).
Giáo dân, với cách suy nghĩ đơn giản là: Đất này của chúng tôi, cha ông
chúng tôi đã mua từ khi chưa có Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vậy
lý cớ gì tự nhiên giao cho người khác mà không có văn bản pháp lý nào.
Họ yêu cầu trả lại khu đất về chủ của nó: Dòng Chúa cứu thế - Xứ Thái
Hà.
Vụ việc trở nên căng thẳng và phức tạp khi mấy ngày gần
đây, các phương tiện thông tin Nhà nước và Thành phố Hà Nội đã liên tục
đăng tải, phát chương trình kết tội giáo dân và tu sĩ ở đây đã “vi phạm
pháp luật”? Còn giáo dân, họ quyết tâm hy sinh cho công lý và sự thật
bất kể đêm, ngày, mưa, nắng. Những khó khăn, như càng kích thích thêm
lòng tin và tinh thần hi sinh của họ. Khắp nơi, sự đồn đại và lan
truyền không chỉ trong đồng bào Công giáo về sự kiện ở Xứ Thái Hà đã
khiến dòng người đổ đến “Phố Đức Bà” ngày càng đông.
Những
điều lạ ở đây cũng đã xảy ra: Trước hết, giáo dân đã mang tượng, ảnh,
thánh giá, hương nến vào khu đất trước sự chứng kiến cuả công an, của
các ban ngành Thành phố Hà Nội mà không hề bị ngăn cản. Cho đến sáng
19/8, một số công nhân của Công ty may Chiến Thắng được điều động đến
phá dỡ lều bạt, giật ảnh tượng ném xuống đất làm cho các giáo dân đang
cầu nguyện cảm thấy bị xúc phạm nặng nề trong khi đội ngũ công an dày
đặc đứng nhìn dửng dưng.
Điều lạ thứ hai, các phương tiện
thông tin của Nhà nước với cả mấy trăm tờ báo, hàng chục đài phát
thanh, truyền hình nhưng hình ảnh vụ việc nóng bỏng này đã không được
ai nói đến. Khi một số báo chí, đài phát thanh truyền hình được huy
động vào cuộc, thì đã lại làm việc theo lối bổn cũ soạn lại, lại nhào,
nặn, bóp méo và xuyên tạc sự thật đến ngỡ ngàng. Điều đó càng làm cho
những người đang cầu nguyện thấy mình đúng hơn, và chính nghĩa hơn. Với
họ, những phương tiện truyền thông Nhà nước đã thông tin như vừa qua là
không đáng tin cậy, là xuyên tạc, vu khống… điều này họ thể hiện công
khai bằng lời nói, bằng hành động và trong những câu chuyện cười ra
nước mắt nơi họ tập trung cầu nguyện, trong những câu chuyện trao đổi
hang ngày, trước mặt các cán bộ, chiến sĩ và ngay cả nhiều lương dân và
có cả các nhà báo chứng kiến.
Những câu hỏi: Tại sao?
Người ta không thể không đặt câu hỏi: Tại sao, một vụ việc tưởng chừng
như đơn giản thế, ngay giữa thủ đô Hà Nội, đầy đủ các cơ quan quyền
lực, pháp luật và là trung tâm chính trị của cả nước lại không thể giải
quyết để những người dân cứ mãi dãi gió dầm sương, để hàng trăm, hang
ngàn lượt cán bộ chiến sĩ phải ngày đêm túc trực với nỗi chán chường và
mệt mỏi? Những việc ngay ở đây còn không thể giải quyết, vậy thì hàng
đoàn người từ Cà Mau, Tiền Giang, Đồng Nai… và các tỉnh xa xôi khác
ngày ngày diễu qua các phố mang biểu ngữ, băng rôn để khiếu kiện đòi
lại đất đai nhà cửa là điều không lạ lùng.
Tại sao, một chính
quyền và một Nhà nước của dân, vì dân nhưng những nguyện vọng chính
đáng của họ, chưa được một cơ quan nào giải quyết triệt để, thấu lý,
đạt tình để sự việc thêm phần phức tạp? Hay tiêu chí đó chỉ là khẩu
hiệu?
Trong các văn bản gửi đi, gửi lại giữa Dòng Chúa cứu
thế và các cơ quan công quyền thời gian qua, nổi bật một vấn đề: Hai
bên chẳng ai nghe ai. Một bên bất chấp sự thật, bất chấp lý lẽ cũng như
cơ sở pháp lý mà bên kia đã trưng ra để chứng minh đất đai của mình mà
chỉ sử dụng mệnh lệnh, nghị quyết, quyết định quyền lực và giải thích
theo cách mà mình thích. Một bên là Dòng Chúa cứu thế thì căn cứ những
cơ sở, hồ sơ, nhân chứng… để chứng minh rằng việc đòi lại là chính đáng.
Đọc những văn bản đó, tôi nghĩ rằng, hình như các cơ quan công quyền
không có khả năng lắng nghe và không có cả những chứng cứ cụ thể, chỉ
nói lấy được nhằm áp đặt mọi sự cho phía Dòng Chúa Cứu thế buộc phải
chấp nhận, dù nó không đúng? Những người có tư duy đó họ quên rằng:
Chính nhà nước này chứ không phải ai khác, đã hô hào từ rất lâu việc
xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền. Vì vậy, người dân không dễ chấp
nhận những điều họ không tâm phục, khẩu phục khi trong đó không chứa
đựng những sự thật. Mọi người phải sống, làm việc theo hiến pháp và
pháp luật, vậy hà cớ gì các cơ quan nhà nước lại không theo đúng những
điều mình đã nói ra để làm gương?
Ngay trong các văn bản có
tính pháp lý của các cơ quan hành chính, chính quyền phát hành về nguồn
gốc và những vấn đề liên quan đến khu đất đã chứa đầy sự bất nhất và
nói lên những điều thú vị:
Trong Quyết định số 2476/QĐ-UBND
của UBND Thành phố Hà Nội ngày 30/6/2008 do Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh
ký, thì ngày họ cho là Linh mục Vũ Ngọc Bích ký biên bản “Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào Nhà nước” là ngày 24/10/1961, việc bàn giao trên là để “thực hiện Thông tư của Thủ tướng Chính phủ số 73/TTg ngày 7/7/1962(?)” .
Thế nhưng, trong Công văn số 1784/TNMT&NĐ-CS của Sở Tài nguyên Môi
trường và Nhà đất Hà Nội do Phó Giám đốc Nguyễn Đăng Bình ký thì “ngày 24/11/1961(?)Linh mục Bích đã bàn giao khu đất Thái Hà qua nhà nước quản lý”?.
Tôi cũng đã đọc Quyết định số 76/SQL-NĐ của Sở Quản lý Nhà đất Hà Nội có nội dung
“giao đất cho Xí nghiệp Thảm len Hà Nội sử dụng khu đất và nhà sẵn có
trong khu vực Nhà thờ Nam Đồng Thái – hà diện tích 16.296 m2” thì văn bản đó lại được ký ngày 30/1/1961(?)
Tại sao có những điều khuất tất như vậy? Có thể đây là sự nhầm lẫn về
ngày tháng do sơ suất được không? Khi mà những câu, chữ, tư liệu trên
đó đã được đóng dấu quốc huy đỏ chót?
Tôi nghĩ là không.
Không có ai lại đi giao đất và tài sản cho đối tượng khác trước khi
được bàn giao cho mình, cũng không một Nhà nước nào lại đi thực hiện
một chỉ thị mà mãi hơn một năm sau khi thực hiện nó mới ra đời. Tất cả
những điều đó đã tự bản thân nó bác bỏ nội dung mà các cơ quan công
quyền đã cố tình đưa ra ép buộc bên có đất đai tài sản phải chấp nhận.
Trước hết, đó là sự làm ăn tắc trách của ngay các cơ quan công quyền,
sự không tôn trọng người dân, và cái lớn nhất là không tôn trọng sự
thật. Người ta nói “đường đi hay tối, nói dối hay cùng” là vậy. Sự thật
muôn đời vẫn là sự thật, dù nó không theo ý muốn của mình, nhưng sự dối
trá, đến một lúc nào đó sẽ “lòi cái đuôi” mà thôi.
Vì những
vấn đề đó chưa được giải tỏa một cách thích đáng, nên người dân lại
càng tin Nhà nước không có lý do gì để chiếm đoạt đất của họ, và cứ thế
họ đòi. Vậy là nhà nước lại tốn công, tốn của và tốn nhân lực để canh
giữ, để họp hành bàn cách đối phó. Người ta ước tính với biết bao lần
họp hành của các cơ quan công quyền, bao nhiêu cảnh sát canh giữ ngày
đêm, bao nhiêu xăng xe, phương tiện truyền thông cũng như nhiều chi phí
khác của người dân, của xã hội… số tiền chi cho vụ Thái Hà này chắc
cũng đã bằng giá trị khu đất, và cứ thế, ngân sách cứ chi, tiền dân cứ
đổ.
Đơn giản nhất, là nếu có một “biên bản bàn giao nhà đất
qua nhà nước sử dụng” của Linh mục Bích, dù là ngày 24/10 hay
24/11/1961 thì cơ quan công quyền hà cớ gì không đưa cho họ tận mắt mục
sở thị?
Trả lời câu hỏi: “Các Cha đã bao giờ được nhìn văn bản Cha Bích ký bao giờ chưa”? Thì Linh mục Thật đã trả lời: “Chưa
bao giờ, dù chúng tôi đã nhiều lần đòi hỏi. Trong cuộc họp do họ tổ
chức, một cán bộ cầm trên tay một tờ giấy, ngồi ở trên bàn trên bảo
rằng: Đây là giấy linh mục Bích ký bàn giao, ngay lúc đó, linh mục Khải
yêu cầu cho xem và cấp cho Nhà thờ một bản photo copy, nhưng họ đã
không cho xem và bảo rằng đây là “bí mật quốc gia”?
Hỡi ôi cái lý luận của kẻ mạnh? Cái cách tranh luận và “làm việc” kiểu
đó thì muôn đời sau cũng không bao giờ có chuyện giải quyết, nhất là
trong giai đoạn “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được nhà
nước đưa lên như một phương cách làm việc của hệ thống công quyền.
Đôi điều suy nghĩ
Thực chất của việc đòi lại đất đai tài sản của Dòng Chúa cứu thế Hà
Nội, cũng như Tòa Khâm sứ, là hậu quả một quá trình hành động của Nhà
nước chỉ biết sử dụng sức mạnh của súng đạn, của lực lượng chuyên chính
vô sản mà bất chấp các quy định về luật pháp, hiến pháp và thiếu trầm
trọng sự tôn trọng quyền lợi người dân. Hậu quả đó, ngày nay các cấp
chính quyền và các ban ngành liên quan trong cả nước đang phải hứng
chịu.
Nếu như trước đây, trong thời kỳ Cách mạng Xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước có những chính sách minh bạch, có những quyết định căn
cứ vào pháp luật, vào hiến pháp để ra những văn bản thuyết phục, thì
muôn đời các tổ chức tôn giáo cũng như hàng loạt hộ dân khiếu kiện hiện
nay chỉ có nước “cấm khẩu”. Nhưng, nếu cứ những văn bản bất
nhất như đã nói ở trên tiếp tục ra đời để cái nọ đá cái kia, thì lại
tiếp diễn những hậu quả tiếp theo cho các thế hệ cầm quyền nối tiếp và
như một bệnh dịch không có khả năng chấm dứt bằng một thứ thuốc thông
thường. Tôi cứ nghĩ tại sao ngày 24/11/1961 lại có sự đồng
loạt của Linh mục Nguyễn Tùng Cương, Linh mục Vũ Ngọc Bích cũng như
nhiều linh mục khác đã như mở một ngày hội yêu nhà nước mà đua nhau
“hiến, tặng, bàn giao” cho nhà nước các tài sản của Giáo hội? Sau khi
tìm hiểu thì được biết: Đó là ngày kê khai tài sản nhà thờ, các cơ sở
tôn giáo. Nếu vậy, thì việc kê khai phải khác với việc “bàn giao” về
bản chất. Hèn chi văn bản của Sở Tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà
Nội đã ghi rằng: “Linh mục Vũ Ngọc Bích (người quản lý) đã bàn giao khu đất Thái Hà qua Nhà nước thống nhất quản lý”?
Khu đất Thái Hà bao gồm tất cả nhà thờ, bệnh viện, dòng tu, vậy sao Nhà
thờ Thái Hà vẫn thuộc Dòng Chúa Cứu thế? một điều mà Nhà nước vô thần
chắc chắn chẳng bao giờ muốn nó tồn tại? Nếu việc kê khai,
đồng nghĩa với việc bàn giao, thì có nghĩa là Nhà thờ Lớn Hà Nội, Tòa
Tổng Giám mục cũng như tất cả nhà thờ, nhà nguyện, nhà xứ… trên miền
Bắc Xã hội chủ nghĩa đều đã được Nhà nước thống nhất quản lý và muốn
biến nó thành chuồng bò, nhà kho đều đương nhiên đúng? Và khi đó bộ Từ
điển tiếng Việt cần bổ sung gấp một từ “kê khai = bàn giao”. Không, không thể lập lờ đánh lận con đen theo cái lý của kẻ cầm súng.
Mọi việc cần minh định rõ ràng. Chỉ có như thế, lòng người mới yên, xã
hội mới yên bình thật sự. Làm sao bây giờ?
Cần khẳng định điều này: với sự cảnh giác của giáo dân và tu sĩ giáo xứ
Thái Hà, Nhà nước mới phát hiện ra việc các đơn vị đang sử dụng đất đai
tại khu vực đất của Dòng Chúa cứu thế - Xứ Thái Hà đã vi phạm pháp
luật. Điều này đã được văn bản của Thành phố Hà Nội xác định. Đó là
công lao của họ. Nếu họ không vì tinh thần chung, không vì mến Chúa yêu
người, thì không biết đến nay, khu đất đó đã được chia thành bao nhiêu
lô và bao nhiêu tiền của đã đổ vào túi những ai và Nhà nước được lợi gì
ở đó? Với người giáo dân, chỉ có tấm lòng kiên trinh và một
niềm tin vững chắc vào công lý, sự thật nhưng đã phải tự đày đọa mình,
hy sinh bản thân với sự vô tư và dũng cảm, để làm sáng tỏ một điều: Sự
thật ở đâu? Công lý ở đâu? Không giải quyết được những câu hỏi đó, là
trách nhiệm của nhà cầm quyền. Với khu đất ngay trung tâm thủ
đô, hàng ngàn mét vuông bị bỏ hoang hóa bao nhiêu năm nay, những tổn
thất biết bao là to lớn, trong khi hàng vạn trẻ em không nhà cửa, hàng
ngàn người đang đầu đường xó chợ, hàng vạn sinh viên đang chen chúc với
tệ nạn xã hội… thì có thể nói đó là một tội ác. Với hàng
loạt cán bộ chiến sĩ ngày đêm cùng phải thi gan cùng tuế nguyệt nơi đầu
đường góc phố, nắng mưa dãi dầm với tâm tư trĩu nặng, tiêu tốn tiền
ngân sách là tiền dân một cách vô ích. Bởi những người đến cầu nguyện
không hề la hét, không hề có biểu ngữ, không manh động, không ồn ào
hoặc gây hấn, thì đó là trách nhiệm của người giải quyết vấn đề đã
không có chuẩn mực để giải quyết vấn đề một cách thấu đáo. Cách giải quyết vấn đề cần có một hướng thật đơn giản nhưng thật khó khăn. Sẽ hết sức đơn giản nếu chính quyền biết tôn trọng người dân, biết lắng
nghe họ. Khi hệ thống cán bộ, công quyền thực hiện đúng câu Hồ Chí Minh
đã nói là “Công bộc của dân” mới có thể tồn tại và cứu vãn được niềm
tin vốn đã xói mòn quá nhiều theo năm tháng tồn tại của mình. Khi đó,
cần nhìn thẳng vào một sự thật đã qua, những khiếm khuyết đã dẫn đến
hậu quả này mà tìm cách khắc phục, trả lại những giá trị thật của chân
lý, của niềm tin. Mạnh dạn sửa chữa những sai lầm đã có, khắc phục
những hậu quả do hệ thống chính quyền từ họng súng gây ra, để đưa đất
nước, nhân dân vào các khuôn khổ của luật pháp. Tất cả
những chứng cứ, những nhân chứng được hai bên bình đẳng đưa ra chứng
minh trước pháp luật bởi một Tòa án công minh. (Tôi nhấn mạnh là “một
tòa án công minh” để tránh một Tòa án xử theo chỉ thị với án bỏ túi xưa
nay) Và sự thật là “Cái gì của Seda phải trả lại cho Seda”. Sẽ hết sức khó khăn, nếu vẫn với quan điểm không dựa vào nhân dân,
không tôn trọng họ mà chỉ dựa vào sức mạnh của súng đạn, của nhà tù và
dùi cui theo kiểu độc tài phát xít. Tất cả những hành động theo hướng
đó, chỉ ngày càng làm cho lòng dân bất ổn, niềm tin vốn đã ít ỏi lại
càng mai một và đến một lúc nào đó, hậu quả của nó thật khôn lường cho
xã hội khi có một xã hội không có niềm tin vào nhà cầm quyền. Những động thái của nhà cầm quyền mấy ngày qua, tiếc thay lại đang đi
theo hướng khó khăn này. Hệ thống truyền thông được huy động càng
nhiều, ra sức tô vẽ bóp méo sự thật, cũng chưa hẳn đã là cách mà nhà
cầm quyền có thể gặt hái được những kết quả theo ý muốn của mình. Bởi họ cần biết một điều, với hệ thống báo chí của đất nước này hiện
nay, đố ai có dám bảo đảm lòng tin của người dân đang đặt vào đó. Kể cả
những người xưa nay vốn đã có lòng tin thần thánh vào chế độ, vào hệ
thống truyền thông chính thống của nhà nước, thì qua các vụ án gần đây
về tham nhũng về bắt bớ nhà báo, về các vấn đề xã hội bị cấm, bị phạt,
bị ký luật… người dân đã hiểu được nhiều những gì đằng sau những bài
báo, và nó đang phục vụ mục đích của ai. Với những thông tin
về những vụ việc này trên báo chí nhà nước, chỉ có một tác dụng cho
những người quan tâm rằng ở Dòng Chúa Cứu thế Thái Hà, Hà Nội, đang có
những vụ việc mà mình cần đến. Vậy thôi. Thật ra, nhà nước đã
biết lợi dụng tôn giáo, đã tạo ra hàng loạt các linh mục quốc doanh,
các tôn giáo quốc doanh để phục vụ họ, nhưng tác dụng thì chẳng có bao
nhiêu. Ngược lại, điều nhà nước có thể lợi dụng được ở người Công giáo
đó là niềm tin của họ vào Sự thật, Công lý, Công bằng và tình yêu
thương… thì nhà nước đã không biết cách lợi dụng để giải quyết vấn đề.
Phải chăng, họ không quen sử dụng những thứ này? Với niềm tin
vào Công lý và Sự thật, cầu mong các vấn đề này được giải quyết trong
tình yêu thương và tha thứ lẫn nhau, để mọi con người đều được tôn
trọng, phẩm giá được nâng cao, tình yêu thương có cơ hội phát triển. Hà Nội, Ngày 19 tháng 8 năm 2008 |
|