Những năm đầu ở Mạc Tư Khoa, Hồ Chí Minh cũng không thiếu đàn bà trong
sinh hoạt thường nhật. Manabendra N. Roy, lãnh tụ Cộng Sản Ấn Độ từng
là ủy viên chính trị của Đệ Tam Quốc Tế, nhưng bị khai trừ năm 1928
trong tác phẩm Men I met kể về những người từng một thời gặp gỡ có đoạn
nhắc đến Hồ Chí Minh với cách sinh hoạt như sau: “Vì ở Nga không có
những quán cà phê kiểu Paris mà ông ta thường lui tới nên để bù lại
cuộc sống kham khổ buồn chán của Mạc Tư Khoa trong những năm 20, Nguyễn
Ái Quốc đã tìm thú vui nơi đàn bà. Đó là các nàng tư sản sa đọa hay các
thanh nữ cộng sản phóng đãng bị thu hút mãnh liệt bởi những khóa sinh
người châu Á.” (12)
Rời Mạc Tư Khoa về Quảng Châu, Hồ Chí Minh lấy vợ năm 1926.
Ngày 6-6-1931, lúc bị Cảnh Sát Anh bắt tại Cửu Long, Hồ Chí Minh lại đang sống với một phụ nữ tên Li Sam.
Ba năm sau đó, năm 1934, Hồ Chí Minh có con với Nguyễn Thị Minh Khai.
Khi Minh Khai về nước, Hồ Chí Minh ở lại cùng Nguyễn Khánh Toàn và đã
có một người vợ Nga để có thêm một đứa con lai.
Ít năm sau Hồ Chí Minh về nước, sống tại vùng rừng núi Cao Bằng và sinh
hoạt tại đây cũng không thiếu đàn bà. Brocheux ghi lời của đại úy Pháp
Desfourneaux là người từng có mặt bên Hồ Chí Minh lúc đó kể về một buổi
Hồ Chí Minh tiếp đón nhóm sĩ quan đặc vụ Mỹ: “Trong cái trại có cả
người Mỹ lẫn người Việt tụ tập thấy có 15 phụ nữ trẻ từ Hà Nội đến để
liên hoan. Ông Hồ giới thiệu họ là những “cô gái giải trí chuyên
nghiệp” (professional entertainers). Trước buổi liên hoan ông Hồ đã cho
chuẩn bị sẵn một hợp chất gồm dược thảo và lộc nhung được coi là có
dược tính khích dâm. Người Mỹ từ chối khi được mời tham dự buổi liên
hoan”.
Desfoureaux thuật lại “nhìn thấy trong ánh mắt ông Hồ như có một ngọn lửa lóe lên khi các nàng kiều nữ tới trại”.
Ghi lại mẩu chuyện này, Brocheux thắc mắc “các cô giải trí chuyên
nghiệp, thường được hiểu là biết nhảy, biết ca hát .... Tại sao lại pha
chế thuốc kích dâm (aphrodisiaques) trước khi liên hoan”? (13)
Năm 1942, Hồ Chí Minh rời căn cứ Cao Bằng trở qua Hoa Nam hơn hai năm.
Trên đường trở lại Cao Bằng vào tháng 8-1944, Hồ Chí Minh lại có một
phụ nữ cùng đi là Đỗ Thị Lạc và sau đó có cùng bà này một cô con gái.
Chỉ riêng với những trường hợp đã được ghi nhận rõ ràng, hơn hai mươi
năm hoạt động đấu tranh của Hồ Chí Minh cũng là hơn hai mươi năm liên
tục đắm chìm trong lạc thú yêu đương.
Nói như Bùi Tín, như Duiker vv…, chuyện này chẳng có gì xấu. Nhưng
trong lúc sống như vậy, Hồ Chí Minh lại dối gạt mọi người rằng mình là
một lãnh tụ cách mạng thanh cao, đạo đức luôn khép mình trong cuộc đời
khổ hạnh của một đấng chân tu, một vị Thánh.
Chính Bùi Tín từng nghĩ Hồ Chí Minh tự nhận là cha già dân tộc và xưng
Bác với đồng bào trong đó có cả cụ già 70, 80 tuổi là không ổn…và cho
là mỉa mai đến buồn cười khi Hồ Chí Minh ký tên khác để viết về bản
thân mình, tự khen mình là vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, tự nói về
mình rằng: “Bác Hồ rất khiêm tốn, Người không bao giờ muốn nói đến bản
thân …”
Bùi Tín nêu một loạt tiêu chuẩn cho việc nhận diện Hồ Chí Minh là cần
khách quan, công bằng, không nên dự đoán và suy diễn. Các tác giả như
William Duiker, Halberstam, Douglas Pike, Sainteny, Bernard Fall... và
hết thẩy những người khác hẳn cũng nghĩ thế. Vấn đề là hết thẩy có theo
nổi đúng những tiêu chuẩn do chính mình đã nêu không?
Riêng với Bùi Tín chắc chắn là “không”, qua lời phát biểu: “Cá nhân tôi
kính trọng ông Hồ Chí Minh…Đây chính là con người thẳng thắn lương
thiện (honnête), sống rất giản dị, yêu thích trẻ con và dễ gần gụi với
những người hèn mọn nhất (humbles)... Tôi cực lực bác bỏ giả thuyết cho
rằng đó chỉ là cái tài đóng kịch của ông.”
Bởi vì, có thể gọi là người thẳng thắn, lương thiện không, khi người đó
dùng mọi cách che giấu những hành vi thực của mình, thậm chí giả xưng
nhà văn, nhà báo viết sách ca ngợi mình là anh hùng vĩ đại, là khiêm
tốn, là cao thượng?
Có thể gọi người luôn tìm cách đẩy vợ vào bóng tối để trình diễn cuộc
sống độc thân và rũ bỏ những đứa con của chính mình là người giản dị,
yêu thích trẻ con không?
Có thể gọi người thản nhiên vô cảm trước hành vi sát nhân mà nạn nhân
chính là kẻ đầu gối tay ấp với mình là người nhân ái, dễ gần gụi với
những kẻ hèn mọn không?
Có thể gọi người nhân danh lý tưởng để lạm dụng quyền hành vào việc
thỏa mãn những thú vui riêng của bản thân là người tận tụy hy sinh
không?
Có thể gọi người ôm ấp phụ nữ trên giường giữa lúc khắp nơi dân chúng
kêu khóc và máu của các đồng chí đang tuôn đổ là người lo trước dân,
hưởng sau dân không?
Có thể gọi người luôn ngoảnh mặt làm ngơ trước những chuyện bất bình
đau đớn bằng cách viện dẫn phải chiều theo một áp lực nào đó là người
chí công vô tư không?
Và, có thể gọi một người làm tất cả những việc đó mà luôn xuất hiện
trước đám đông với bộ mặt dịu dàng, cử chỉ âu yếm, lời lẽ ngọt ngào
khuyên nhủ cần sống hợp đạo lý, cần hết lòng thương yêu kẻ khác là
người không biết đóng kịch không?
Duiker, Halberstam, Douglas Pike, Bùi Tín vv… có thể kính trọng, ngưỡng
mộ Hồ Chí Minh, chọn Hồ Chí Minh làm thần tượng không cần giải thích lý
do.
Tuy nhiên, mọi câu trả lời khách quan cho những nghi vấn trên chỉ phác
họa chân dung một kẻ luôn che giấu cuộc sống thực bằng những thủ đoạn
trình diễn kiệt xuất như chính Douglas Pike và Halberstam đã nhìn nhận
“...Hồ luôn luôn chứng tỏ là kẻ đại tài về xảo trá và tàn bạo”.
Bùi Tín cũng đã kết án việc “vu khống chụp mũ, ám sát, thủ tiêu những
người lãnh đạo trốt-kýt như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch
là … một tội ác trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc”. Tuy
Bùi Tín thận trọng ghi tội ác này là của những người lãnh đạo Đảng Cộng
Sản Đông Dương, nhưng lại xác nhận mọi việc khởi từ chỉ thị của Hồ Chí
Minh, nhân danh thực hiện chủ nghĩa Stalin.
Không dễ tìm nổi mối tương đồng giữa kẻ chủ trương vu cáo, thủ tiêu
những người yêu nước, phạm tội ác trong lịch sử đấu tranh với người
nhân ái, có công đầu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cũng không dễ tìm nổi mối tương đồng giữa kẻ xảo trá tàn bạo với người
thẳng thắn lương thiện, giữa kẻ gạt bỏ tất cả những đứa con của mình và
nhẫn tâm sát hại chính vợ mình với người giản dị, yêu thương con trẻ và
người hèn mọn …
Càng khó tìm nổi mối tương đồng giữa kẻ đã nhúng tay vào tội ác và có
cuộc sống riêng nhầy nhụa, lén lút nhưng luôn tô vẽ mình là anh hùng vĩ
đại, đạo đức tuyệt vời, gương mẫu bậc nhất với người luôn thẳng thắn,
không hề biết đóng kịch.
Nhiều người vì một lý do riêng nào đó đã cố gắng xóa lằn ranh giữa tàn
bạo và nhân ái, giữa lương thiện và xảo trá, giữa giản dị và quanh co,
giữa thẳng thắn và gian dối… nhưng đây là việc bất khả thi dù tốn hao
công sức cỡ nào.
Lằn ranh kia sẽ tiếp tục tồn tại và tồn tại mãi mãi để phân biệt hai
mặt thực tế và xác định ý hướng của mỗi con người trong cuộc sống.
Chọn lựa thẳng thắn hay gian dối, chọn lựa giản dị hay quanh co… nằm
trong ý hướng và nỗ lực của mỗi con người được chứng minh bằng chính
hành vi của con người đó.
Hành vi của Hồ Chí Minh đã chứng tỏ ý hướng và nỗ lực của ông nghiêng
về phía nào, bất chấp mọi biện giải của những người khác ở xung quanh
ra sao.
Cho nên, để nhận diện Hồ Chí Minh một cách khách quan và công bằng
không thể dựa vào những biện giải mà chỉ có thể nhìn thẳng vào hành vi
của chính Hồ Chí Minh.
Trên thực tế, Hồ Chí Minh từng có vợ, có con và có nhiều vợ, nhiều con
từ tuổi ba mươi tới cuối đời. Đây là một thực tế không thể phủ nhận.
Suốt thời gian đó, Hồ Chí Minh luôn tránh né đề cập đến việc vợ con và
năm 1967, khi Bernard Fall nêu câu hỏi về vấn đề này, chính Hồ Chí Minh
đã cho rằng tất cả chỉ là tin đồn sai sự thực. (14) Đây cũng là một
thực tế hiển nhiên.
Sự hiện diện song song của hai thực tế này đủ bài bác mọi lời biện giải
khởi từ những dự đoán hay suy diễn mang tính chủ quan của mọi người.
Bùi Tín luôn kính trọng Hồ Chí Minh cũng không thể phủ nhận tiếng nói
này của thực tế. Tuy nhiên, theo Bùi Tín, Hồ Chí Minh phải tuân hành ý
Đảng.
Giả dụ cứ cho rằng ý nghĩ này không phải dự đoán và suy diễn để coi là
thực tế thì lại gặp một thực tế ngược lại. Đó là sự có mặt của cuốn
sách do chính Hồ Chí Minh giả xưng nhà báo Trần Dân Tiên để viết về
mình với những dòng mở đầu: “Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại
quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản
đơn: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế mình”.
Bùi Tín nói đây là điều mỉa mai đến buồn cười vì cảnh Hồ Chí Minh ngồi
nắn nót hàng chữ trang trọng “Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại
thân thế”. (15)
Nhưng đây mới chỉ là bước mở đầu cho những bước tiếp không còn buồn
cười mà phải cười ra nước mắt khi hình dung chính Hồ Chí Minh đang viết
những dòng sau: "Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm
nhường dường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao có thể
kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được.”
Kiều Phong trong Chân dung Bác Hồ phát biểu: "Nếu bác tôn trọng lời bác
nói thì cuốn sách … không bao giờ được viết ra vì từ ngày 4-9-1945 cho
tới chết, có bao giờ hết cảnh "rất nhiều đồng bào đang đói khổ" hay có
khi nào bác hết "những công việc cần kíp đâu.” (16)
Tất nhiên Hồ Chí Minh không tôn trọng lời nói của mình vì biết rõ mình
đang nói dối và thấy nói dối là cần nên đã tiếp tục kể: “Khi Chủ Tịch
Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi… đã sớm hiểu biết và
rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào… đã có chí đuổi thực dân
Pháp, giải phóng đồng bào… đã tham gia công tác bí mật, nhận việc liên
lạc… nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào, vì: Cụ
Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó
là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu
hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám trực tiếp chống
Pháp, nhưng còn nặng cốt cách phong kiến. Anh thấy rõ và quyết định con
đường nên đi…”
Hồ Chí Minh tả tiếp về mình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 sau khi đã chọn
được con đường nên đi: “Ngày hôm đó, lần đầu tiên thủ đô Hà Nội được
“mắt thấy” người con yêu quý nhất của dân tộc Việt Nam… Nhân dân nhận
thấy Hồ Chủ Tịch giản dị, thân mật như một người cha hiền về với đám
con…Quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của một người Cha…”
Và, hình ảnh Hồ Chí Minh do Hồ Chí Minh giới thiệu trước công chúng như
sau: “Nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ Tịch,
vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ Tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ
Tịch. Không có gì so sánh được với lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng
lãnh tụ Hồ Chí Minh… Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng yêu
nước, yêu nhân dân… Hơn bốn mươi năm nay, Hồ Chủ Tịch chỉ đeo đuổi một
mục đích giải phóng Tổ Quốc và đồng bào… Chủ Tịch đã từng chịu đựng khổ
sở vất vả không thể tưởng tượng được suốt trong thời kỳ hoạt động bí
mật…Nhưng Chủ Tịch dũng cảm và kiên quyết vượt qua mọi khó khăn. Chủ
Tịch không bao giờ thay đổi, vẫn luôn luôn là một người yêu nước trong
sạch và nhiệt tình… Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy
sinh và lòng nhân từ của Người.
Đúng như lời nói của Mặc Tử, nhà triết học Trung Quốc đời xưa: “Nếu có
lợi cho thiên hạ thì dù mình bị mài mòn từ gót đến đầu cũng vui
lòng”…Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người
khác, nghĩ đến nhân dân. Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do tính
cương trực và lòng trong sạch của Người. Thái độ của Người ngay
thẳng…Vì Bác Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng
ruộng tăng thêm năng suất. Đối với nhi đồng, tên bác Hồ như là một
người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn...
Nhân dân gọi Chủ Tịch là Cha Già của Dân Tộc…” (17)
Kiều Phong nhận xét: "Hãy bỏ qua những câu chuyện dại dột, lố bịch....
chỉ cần nhìn lại chính cái giây phút Bác ngồi nắn nót viết câu đó là
thấy Bác man trá chừng nào. Đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói, chiến
tranh còn khốc liệt… con người "chỉ nghĩ đến nhân dân” ấy lại tranh
nghề của bọn văn nô, bỏ hết thời giờ tâm trí vào việc ngồi viết văn tự
tâng bốc. Vào lúc người dân Việt đang thi đua gục ngã ở chiến trường
theo sự hướng dẫn của Chủ Tịch thì vị "cha già dân tộc” cứ say sưa bận
rộn với sự nghiệp tự nâng bi. Có ông Cha già nào trên đời lại nhố
nhăng, vị kỷ và bất nhân đến thế!” (1
Thực ra phải nói không một người nào, dù chỉ đạt mức thẳng thắn và
lương thiện tối thiểu, lại dám tự gán cho mình những mỹ hiệu tột đỉnh
như “người con yêu quý nhất của Việt Nam, người cha hiền của quần
chúng, người được toàn dân kính yêu không gì so sánh nổi, người sẵn
sàng mài mòn từ gót đến đầu để mưu lợi ích cho thiên hạ, người dũng
cảm, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, người chịu đựng mọi gian khổ
cùng cực, người cương trực, trong sạch và người được nhân dân gọi là
Cha Già của Dân Tộc…”
Trong lịch sử nhân loại chắc chỉ duy nhất có một người hoàn hảo như
vậy, một người mà danh hiệu Thánh Sống cũng chưa diễn tả hết những đức
tính tuyệt vời.
Nhưng thực tế cuộc sống của người đó ra sao?
Mức gian khổ cùng cực được đưa ra là gì?
Phải chăng là vỏn vẹn hai lần bị bắt tại Trung Hoa vì lý do hoạt động
cho Cộng Sản với không đầy ba năm tù và chưa từng bị đòn vọt?
Phải chăng là những năm tháng đóng vai nhà báo, đóng vai sĩ quan Trung
Cộng… với nguồn tiền bạc do Đệ Tam Quốc Tế cung cấp đều đặn?
Phải chăng là những buổi liên hoan có cả thuốc kích dâm ngay giữa mật khu và ở đâu, lúc nào cũng không thiếu đàn bà bên cạnh? …
Theo Bùi Tín, Nguyễn Tạo và cả Vũ Thư Hiên, Hồ Chí Minh ở vào thế không
thể đi ngược ý muốn của tổ chức, cụ thể là do Đảng quyết định.
Đảng muốn biến Hồ Chí Minh thành “Thánh Sống” trước mắt dân chúng để
trở thành “Cha Già Dân Tộc” và Hồ Chí Minh bắt buộc phải tuân theo.
Như vậy, tội xảo trá lừa gạt là tội của Đảng còn Hồ Chí Minh đã trở
thành Thánh Sống, thành Cha Già Dân Tộc một cách bất đắc dĩ.
Nhưng cả Bùi Tín lẫn Vũ Thư Hiên đều thấy việc Hồ Chí Minh giả xưng nhà
báo để viết hai cuốn sách về mình không do lệnh Đảng. Bùi Tín nghĩ là
điều mỉa mai buồn cười còn Vũ Thư Hiên cho là hành động ngớ ngẩn thừa
thãi.
Thực ra, người ngớ ngẩn đáng buồn cười không bao giờ là Hồ Chí Minh.
Chính Bùi Tín từng nói Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng ở đường lối và
kinh nghiệm của Liên Xô với thái độ giáo điều, đã đi đầu trong việc
mang chủ nghĩa Mác-Lênin được Stalin hóa vào Việt Nam.
Như vậy, hơn ai hết, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ tầm vóc quan trọng của
võ khí tuyên truyền, trong đó việc tạo dựng thần tượng là một yếu tố
quyết định thành bại của nỗ lực đấu tranh.
Thần tượng tạo sức mạnh thu hút, đồng thời cũng tạo sức mạnh chi phối
đối với quần chúng và dư luận. Để đạt mục tiêu này, thần tượng phải bao
gồm mọi khía cạnh đáp ứng đúng nhu cầu tình thế và nguyện vọng quần
chúng.
Trong hoàn cảnh toàn dân sôi sục nhiệt tình yêu nước, thần tượng không
thể chỉ hiện ra như một nhân vật tài năng quán thế mà còn phải là biểu
tượng tột cùng của tinh thần dân tộc.
Đây cũng là khía cạnh vô cùng quan trọng trong đòi hỏi của tình hình
thế giới đang bắt đầu hình thành trận tuyến giữa tự do và cộng sản.
Chính vì thế, mặc dù tự gán cho mình mọi màu sắc tuyệt vời, Hồ Chí Minh
đã nỗ lực che giấu niềm tự hào cao nhất là tính chất Cộng Sản.
Hồ Chí Minh không hề ngớ ngẩn thừa thãi hoặc làm trò cười khi vùi lấp
vóc dáng thực là Vị Thánh của Chủ Nghĩa Cộng Sản như Krutshchev đã mô
tả để tự gán cho mình danh hiệu Cha Già Dân Tộc.
Danh hiệu này chính là võ khí cần thiết cho việc thu hút những người
yêu nước, đặt tất cả dưới sự chi phối đồng thời vận động sự hỗ trợ trên
khắp thế giới để tạo một thế trận dư luận bao vây cô lập mọi đối thủ.
Diễn trình cuộc chiến Việt Nam trước và sau 1954 đã nói lên thực tế này rất rõ ràng với không ít chứng liệu.
Hồ Chí Minh, như Bùi Tín diễn tả, là người đi đầu trong việc truyền bá
lý tưởng Cộng Sản, là tín đồ nặng tinh thần giáo điều của chủ thuyết
Stalin, nên không thể nhắm mục tiêu nào ngoài việc phát triển ảnh hưởng
Cộng Sản để đi tới thiết lập nền chuyên chính vô sản trên toàn thế
giới.
Nhưng đã không ít lần, Hồ Chí Minh cũng như các thủ hạ từng tuyên bố
mình không hề là Cộng Sản, mục đích của mình chỉ là giải phóng dân tộc.
Luận điệu tuyên truyền này được phụ họa với dàn đồng ca xưng tụng thần
tượng là Cha Già Dân Tộc cất lên không ngừng ở bất kỳ nơi nào đã tạo
ảnh hưởng không nhỏ trong dư luận thế giới mà chứng tích đầy rẫy trong
sách báo. Ảnh hưởng đó đã góp phần quyết định thắng lợi cho Cộng Sản
trong mục tiêu giành quyền thống trị.
Tự phong là Cha Già Dân Tộc, Hồ Chí Minh không hề ngớ ngẩn mà đã mở ra
một chiến dịch lớn trên mặt trận tuyên truyền tấn công thẳng vào dư
luận cả trong lẫn ngoài nước để củng cố chiêu bài giải phóng dân tộc
cho Đảng Cộng Sản theo đuổi mục tiêu độc chiếm quyền lực tại Việt Nam.
Tầm mức quan trọng đó khiến Hồ Chí Minh phải đích thân tự tô vẽ bức
tranh thần tượng của mình thay vì trao cho thủ hạ. Cho tới nay, nhiều
hình ảnh Hồ Chí Minh được giới thiệu ở khắp nơi đều rập theo khuôn mẫu
do Hồ Chí Minh đưa ra từ đầu năm 1948 cho thấy ảnh hưởng của trận đánh
tuyên truyền này sâu rộng tới mức nào.
Nhưng dù nhắm mục đích nào, lường gạt vẫn là lường gạt.
Hồ Chí Minh đã lường gạt quần chúng Việt Nam và lường gạt cả dư luận thế giới để giành thắng lợi cho Cộng Sản.
Biện giải để trút bỏ trách nhiệm lường gạt từ Hồ Chí Minh qua Đảng Cộng Sản Đông Dương là điều ngược với thực tế.
Bởi lẽ, Đảng trị chỉ là tên gọi khác của một kiểu mẫu chế độ độc tài mà
trong đó lãnh tụ luôn nắm quyền uy tuyệt đối của một bạo chúa.
Bùi Tín đã nhìn về Đảng Cộng Sản Việt Nam như sau: “Đảng độc quyền lãnh
đạo, không cho phe phái xuất hiện trong Đảng, giữ một khối thống nhất
nguyên khối (monolithique) … Đảng là nhà nước, đồng nhất với nhà nước,
Đảng là luật pháp, coi thường luật pháp… Đảng và chính quyền là của một
nhóm lãnh đạo, là của một lãnh tụ duy nhất”. (19) Khi Đảng đã là thứ
nằm dưới quyền sai xử của một lãnh tụ duy nhất thì có thể ban chỉ thị
cho lãnh tụ chăng?
Nếu Đảng có đủ uy lực ép buộc Hồ Chí Minh phải làm ngược ý muốn chắc
chắn Hồ Chí Minh đã không thể có cuộc sống hoang tàng như từng có.
Để diễn tả chính xác, chỉ có thể bảo Đảng chính là một công cụ vận dụng tối đa uy lực để phục vụ Hồ Chí Minh.
Trước hết, chính các cán bộ cao cấp của Đảng đã phải đi kiếm gái đẹp về
cho Hồ Chí Minh. Trường hợp cô Xuân là một chứng minh và có thể kể thêm
trường hợp bất thành với cô Nguyễn Thị Phương Mai tại Thanh Hóa.
Kế tiếp, chính các cán bộ cao cấp của Đảng phải cúi đầu nhận cái công việc đêm đêm lén lút đưa gái tới với Hồ Chí Minh.
Sau đó, cơ cấu chỉ đạo cao nhất của Đảng cùng các cơ quan viên chức Nhà
Nước lại lên tiếng ca ngợi Hồ Chí Minh là ông Thánh Sống, là bậc chân
tu đạo hạnh tuyệt vời để dối gạt dư luận. Hồ Chí Minh đã hóa thân thành
Đảng và nhân danh Đảng để biến đồng chí thành một nhóm thủ hạ tận trung
tới mức sẵn sàng làm mọi việc kể cả nhúng tay vào máu như trường hợp cô
Xuân, khi phát giác thấy dấu hiệu đe dọa sự nguyên vẹn của tấm áo thần
thánh mà Hồ Chí Minh đang mặc.
Chiếu theo thực tế, uy quyền của Hồ Chí Minh trong tương quan với Đảng
Cộng Sản Việt Nam còn vượt khỏi phạm vi diễn tả của Bùi Tín.
Trước 1945, Đảng chỉ có tư cách một chi bộ độc lập trực thuộc Đệ Tam
Quốc Tế mà Hồ Chí Minh là đại diện nên người ra chỉ thị cho Đảng, quyết
định mọi đường đi nước bước của Đảng chính là Hồ Chí Minh.
Trong tương quan cá nhân, hết thẩy tập thể lãnh đạo Đảng đều thuộc vai
học trò của Hồ Chí Minh nên Hồ Chí Minh từng thoải mái tuyên bố là
không ai có thể làm được điều gì nếu không có Hồ Chí Minh.
Kể từ 1945, khi Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo Đảng thì uy quyền trở
nên tuyệt đối hơn. Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng… đều đã
bày tỏ thái độ tuân phục triệt để trước Hồ Chí Minh mà chứng cớ cụ thể
là lời lẽ phát biểu về lãnh tụ trong các tác phẩm viết nối tiếp sau tác
phẩm của Hồ Chí Minh tự ca ngợi mình.
P.J Honey từng mô tả về uy quyền lãnh đạo của Hồ Chí Minh trong Đảng và
Nhà Nước ở Hà Nội: “Chỉ một mình ông quyết định những vấn đề chính trị
cao cấp, còn những kẻ khác, kể cả các ủy viên bộ chính trị, chỉ có việc
chấp nhận và tuân hành mệnh lệnh của ông về các vấn đề liên quan”.
Cho nên, không thể cho rằng Đảng ép buộc Hồ Chí Minh phải trở thành Thánh Sống.
Trên thực tế, chính Hồ Chí Minh đã chỉ đường vạch lối cho Đảng phải
thần thánh hóa mình và còn vẽ ra cả hình thù của vị thánh Hồ Chí Minh.
Bằng chứng về ý muốn này của Hồ Chí Minh đã hiện diện ngay trước mắt
mọi người là 2 cuốn sách ký tên Trần Dân Tiên và T. Lan.
Dù 2 cuốn sách được viết ra bởi bất kỳ lý do nào thì vẫn chứa đựng ý
của người viết muốn tô điểm mình thành một khuôn mẫu nhân vật do chính
mình diễn tả bằng mọi thứ mỹ từ như anh hùng cứu nước, con yêu của đất
nước, cha già dân tộc...
Khởi từ đây, Đảng đã tô vẽ cuộc đời đấu tranh không thiếu niềm vui của
Hồ Chí Minh thành cuộc đời đầy gian lao khổ hạnh, đã làm mọi cách để
vùi lấp những người đàn bà sống bên cạnh Hồ Chí Minh kể cả nhúng tay
vào máu, đã phải đi từ khuyến dụ tới ép buộc mọi người dành riêng tiếng
Bác để gọi Hồ Chí Minh và tô vẽ cho Hồ Chí Minh những màu sắc huy hoàng
nhất bằng các màn trình diễn suy tôn Thánh Sống trong các buổi sinh
hoạt với dân chúng trên toàn miền Bắc từ năm 1946.
Khi Hồ Chí Minh giả xưng nhà báo có tên Trần Dân Tiên tạo ra khuôn mẫu
thần tượng cho bản thân mình thì toàn Đảng có nhiệm vụ phổ biến khuôn
mẫu thần tượng này. Đảng chỉ tuân hành chỉ thị còn người chủ trương xảo
trá, lừa gạt không là ai khác, ngoài Hồ Chí Minh, dù đã có những biện
giải ra sao.
Với thực tế này, việc Hồ Chí Minh có tài đóng kịch đã trở thành rõ
ràng. Bởi kẻ thiếu tài đóng kịch để che giấu chân tướng thì không lường
gạt nổi ai.
Cho tới giờ này, sự kiện Hồ Chí Minh vẫn được Bùi Tín kính trọng vì cho
là người lương thiện, vẫn được Sainteny nghĩ là người tin ở Chúa Jésus,
vẫn được Nguyễn Tạo, Vũ Thư Hiên tội nghiệp do bị áp lực đến nỗi phải
im lặng khi vợ mình bị thủ hạ sát hại và vẫn được nhiều người cho là
nhà ái quốc vĩ đại hết lòng lo cho dân, cho nước… Chứng tỏ Hồ Chí Minh
không chỉ có tài đóng kịch mà còn là kịch sĩ kiệt xuất đã che mắt không
chỉ một người mà nhiều người trong một thời gian dài.
Tài đóng kịch của Hồ Chí Minh có thể do thiên phú và phần khác do được
rèn luyện về các kỹ năng tuyên truyền, kỹ năng điệp báo...
Truy tầm nguồn gốc các kỹ năng này hoàn toàn không cần thiết bởi chủ
điểm của vấn đề ở đây chỉ là Hồ Chí Minh có tài đóng kịch hay không.
Chủ điểm đó đã có lời giải đáp qua thực tế con người hai mặt không thể
phủ nhận của Hồ Chí Minh với đủ loại huyền thoại.
Dù sao, công bình mà nói phải nhận là về phương diện này Hồ Chí Minh đã
chứng tỏ tài trí hơn người. Cứ tưởng tượng một diễn viên điện ảnh hay
một điệp viên quốc tế đã phải tốn biết bao công phu rèn luyện mới leo
lên đến bậc siêu sao hay điệp viên thượng thặng.
Thế mà Hồ Chí Minh, ngoài cái tài xuất chúng về tuyên truyền chẳng khác
gì một nhạc trưởng của dàn nhạc giao hưởng, ông còn có tài “đóng kịch”
một cách kiệt xuất, đến nỗi những kẻ gần bên ông như Bùi Tín, hay những
bậc thức giả như Bernard Fall đã phải thốt lên: “Không phải kịch!” hay
“Không thể nào đóng kịch tài đến thế trong suốt một thời gian dài đến
thế!” Nhiều người đã đánh giá ông Hồ quá thấp khi bảo tuyên truyền chỉ
là nói dối, ai làm không được. Hoặc đóng kịch chỉ là đánh lừa, cái tài
của bọn gian manh!
Thực ra tuyên truyền chính trị là một khoa học, hơn nữa đồng thời cũng
là một nghệ thuật mà người lãnh đạo mặt trận này được ví như nhạc
trưởng tài ba vừa thông thạo nhạc lý, vừa có khả năng sử dụng một cách
điêu luyện nhiều nhạc cụ, lại có uy tín đủ để tập họp được một tập thể
nhạc công có tài... Và nghề điệp báo hay diễn viên điện ảnh cũng là cả
một khoa học phức tạp không có tài thiên phú khó mà thành công. Cho nên
phải nhìn nhận Hồ Chí Minh đã phải có chí lớn, có một lý tưởng mà ông
tôn thờ, say mê nhắm tới mới có thể bền chí khổ công rèn luyện mà
thành. Chỉ tiếc rằng lý tưởng của ông là ảo tưởng (của chủ nghĩa
Mác-Lênin), và cái tài của ông đã được xử dụng để đánh lừa và nhấn chìm
cả một dân tộc vào cảnh máu lửa triền miên.
Hồ Chí Minh đã có hàng trăm huyền thoại về cười, khóc, về cung cách
thân mật, về lời lẽ ngọt ngào, về hành vi nhân ái… Giữa những huyền
thoại đó, huyền thoại về đôi dép râu được nhắc lại không biết bao nhiêu
lần như một chứng liệu về nếp sống giản dị và sự quên mình của Hồ Chí
Minh.
Theo lời kể, Hồ Chí Minh gần như không khi nào rời đôi dép râu, kể cả
khi đón tiếp quốc khách quan trọng như Mao Trạch Đông. Chuyện kể ngụ ý
Hồ Chí Minh có tính tình giản dị và luôn tiết kiệm, nhất là có xu hướng
gần gũi với người nghèo khổ.
Sau năm 2000 Lữ Phương còn say sưa kể lại chuyện này để đề cao lãnh tụ:
“Bác Hồ đi dép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi dép đến mòn lẳn.
Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu.
Cuối cùng nài nỉ mãi không được, cậu phải lấy lén đôi dép ấy đi đổi.
Khi phát hiện, Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy
lại đôi dép cũ.” (20)
Nhưng Hồ Chí Minh trung thành với đôi dép râu tới mức đó chưa hẳn do ý hướng như người kể muốn nhắc.
Trên thực tế, chuyện đã gợi nhớ lời kể của Võ Nguyên Giáp: “Bác chỉ
định mấy đồng chí cùng đi. Thấy một đồng chí mang dép, Bác bảo về nhà
thay giày. Bác nói: Khi nào gặp “người ta”, tôi ăn mặc thế nào cứ mặc
tôi, nhưng các chú thì phải cho tề chỉnh”.
Lời kể này diễn tả khá đầy đủ ý nghĩa việc Hồ Chí Minh nằng nặc đòi lại
đôi dép cũ và đã phản ảnh sự việc không hề do bản tính tự nhiên mà có
chủ ý rõ rệt. Mấy câu thơ của Nguyễn Chí Thiện trong Hoa Địa Ngục có lẽ
cũng bắt nguồn từ giai thoại về đôi dép này:
Chân đi dép lốp
Mồm đốt đôla
Bác Hồ chúng ta
Kịch gia xuất sắc.
Phía sau con người thánh thiện Hồ Chí Minh đã hiển hiện một con người
đúng như Olivier Todd diễn tả là dù “chết hay sống, chúng ta không có
quyền nhìn quá lâu, hoặc quá gần". (21)
Minh Võ
[Trích chương 49 tác phẩm biên khảo HỒ CHÍ MINH, nhận định tổng hợp do
Tủ Sách Tiếng Quê Hương ở Virginia (điện thoại: 703- 573- 1207)]
|