Khưu Bình lược dịch từ Epoch Times 18/8/08
Các
lực sĩ Trung Quốc tiếp tục giành các ngôi vị cao quý tại Thế vận hội
Bắc Kinh, nhưng đó không hẳn là thành quả của tài năng và luyện tập.
Chế độ cộng sản Trung Quốc là một động lực lèo lái đằng sau các chiến
thắng đoạt huy chương vàng, và bằng chứng tiết lộ cho thấy chế độ đã
lợi dụng quyền cai trị độc tài để chuyển đưa một số lượng rất lớn tài
nguyên giàu có của quốc gia, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến sức khoẻ
của các vận động viên và lệ thuộc nặng nề vào việc dùng thuốc kích
thích, nhằm mục đích đoạt huy chương vàng Thế vận.Nhiều người
tiên đoán là Trung Quốc sẽ vượt qua mặt Hoa Kỳ để trở thành nước dẫn
đầu thế giới trong việc đoạt được nhiều huy chương vàng nhất. Cựu giám
đốc quản trị Uỷ ban Thế vận Hoa Kỳ Jim Scherr nói rằng trước sự tiến bộ
của Trung Quốc, đoàn Thế vận Hoa Kỳ phải chuẩn bị tâm lý cho việc có
thể mất đi thứ hạng đầu trong các nước đoạt huy chương vàng tại Thế
vận hội Bắc Kinh. Zou Chunlan, cựu vô địch cử tạ, nạn nhân của một hệ thống huấn luyện dùng thuốc kích thích, đang làm việc tromg một nhà tắm công cộng
Kể
từ năm 1984 khi Trung Quốc lần đầu tiên tham dự Thế vận hội Los
Angeles, thì họ đã để lộ ra một sự thèm khát mạnh mẽ trong việc đoạt
huy chương vàng, và có nhiều tiến bộ rất đáng chú ý trong các nỗ lực
cuả họ. Tại Thế vận hội Athens 2004, Trung Quốc thậm chí vượt qua cả
Nga Sô để trở thành quốc gia đoạt được nhiều huy chương đứng hàng thứ
nhì. Trung Quốc đoạt được 32 huy chương vàng năm đó, chỉ kém Hoa Kỳ có
4 huy chương vàng. Bây giờ tại Bắc Kinh, Trung Quốc hy vọng rằng lợi
thế sân nhà sẽ giúp họ có thêm một động cơ cần thiết để trở thành quốc
gia đứng đầu thế giới trong việc đoạt huy chương vàng. Hệ thống Thể dục thể thao quốc gia của Trung QuốcBí
mật trong sự đi lên của Trung Quốc về việc đoạt được nhiều huy chương
vàng là gì? Một chương trình thể dục thể thao được biết qua cái tên Hệ
thống Thể dục Thể thao Quốc gia là then chốt cho cái được coi là vinh
quang này. “Nếu không có Hệ thống Thể dục Thể thao thì chúng tôi không
thể nào đạt được sự thành công rạng rỡ”, theo lời Phó bí thư Tổng cục
Thể dục Thể thao Trung quốc cho biết.Theo các báo cáo của nhà
nước, Hệ thống TDTT của Trung Quốc dùng một lượng tài chính và nhân lực
rất to lớn của quốc gia để huấn luyện một số nhỏ các vận động viên hàng
đầu. Kết quả là sự tiến bộ rất nhanh chóng của các vận động viên chỉ
trong một thời gian ngắn với chú tâm vào mục tiêu giành các huy chương.
Trong khi hệ thống này được chứng minh là có hiệu quả, thì nó cũng gây
ra nhiều tai hoạ. Chẳng hạn như, một phần rất lớn dân số Trung Quốc vẫn
sống trong nghèo đói. Trong khi những người dân nghèo này phải đổ mồ
hôi sôi nước mắt để có một cuộc sống đạm bạc, thì một nguồn tài chính
vô hạn của quốc gia được đổ vào hệ thống TDTT này. Trung Quốc không
ngần ngại một tốn kém nào cho tham vọng giành vinh quang tại Thế vận
hội. Hệ thống này đã được Liên Xô thiết lập ra trước đây, và
sau đó được các chế độ độc tài cộng sản khác như Ðông Ðức và Lỗ Ma Ni
bắt chước y chang. Nhưng sau khi khối cộng sản Ðông Âu xụp đổ, thì chỉ
còn có Trung Quốc là tiếp tục dùng hệ thống này. Hệ thống TDTT
quốc gia chỉ quan tâm duy nhất đến việc theo đuổi để thắng nhiều huy
chương Thế vận bằng bất cứ giá nào, và không cần biết đến tinh thần
thực sự của cuộc tranh tài. Nhà nước Trung Quốc công khai thú
nhận rằng mục tiêu của hệ thống này đơn giản chỉ là giành được nhiều
huy chương. Ở những quốc gia khác, uỷ ban Thế vận là các tổ chức độc
lập; nhưng Uỷ ban Thế vận Trung Quốc và Hệ thống TDTT thực ra chỉ là
một cơ quan với hai danh xưng khác nhau. Nhiều người đã đòi
hỏi Trung Quốc cải tổ lại chương trình Thế vận của họ, vì nó đã giết
chết tinh thần tranh đua thể dục thể thao. Dưới đây là vài thí dụ về
những tai hại của một hệ thống như vậy:Một nguồn tài nguyên quốc gia lớn lao được đầu tư vào các lực sĩ Thế vậnTrong
khi Ðiều hành thể dục thể thao là một chương trình tưởng là được dùng
cho toàn dân trong các sinh hoạt thể dục thể thao, thì mỗi năm hàng tỷ
nhân dân tệ được chi tiêu vào việc huấn luyện các vận động viên thượng
thặng của Trung Quốc, hầu như là chẳng còn gì cho các sinh hoạt thể dục
thể thao và lợi ích của mọi người dân khác.Theo bài báo tựa đề
“Trường thể dục thể thao của Trung Quốc: Ðiên vì huy chương vàng” của
tạp chí Time, thì trước năm 2001, ngân sách hàng năm dành cho Tổng cục
thể dục thể thao quốc gia là 428 triệu nhân dân tệ (khoảng 54 triệu Mỹ
kim). Trong thời gian chuẩn bị cho Thế vận hội Bắc Kinh, ngân khoản này
đã tăng lên 714 triệu nhân dân tệ cho mỗi năm. Theo viên giám đốc Học
viện Nghiên cứu TDTT trực thuộc Tổng cục TDTT thì mỗi huy chương vàng
mà Trung Quốc giành được trong các cuộc tranh tài quốc tế phải tốn kém
đến 7 triệu Mỹ kim. Tổng cộng phí tổn cho Thế vận hội Bắc Kinh ít nhất
là 40 tỷ đô la. Tay bơi nữ Yuan Yuan, bị bắt quả tang mang thuốc kích thích vào Úc, trong Giải vô địch bơi lội thế giới năm 1998 ở Perth City
Các
nhà phê bình đã vạch ra cho thấy rằng ngân khoản dành cho Tổng cục TDTT
quốc gia được trích từ nguồn thuế đóng góp của người dân, nhưng lại chỉ
độc quyền dùng cho các lực sĩ Thế vận, gây ra hậu quả là việc thiếu
thốn các phương tiện tập luyện TDTT trên toàn quốc. Cảm thấy chán nản
và bất lực, người dân khắp nơi ở Trung Quốc đều nói rằng điều này làm
phí phạm tiền bạc đóng thuế của nhân dân.
Hàng trăm ngàn vận động viên trở thành nạn nhân
Hệ
thống TDTT quốc gia của Trung Quốc tuyển chọn các trẻ em có tài năng về
thể dục thể thao trên toàn quốc. Các em này được huấn luyện đặc biệt
nhằm mục đích giành được càng nhiều huy chương càng tốt. Trong khi hệ
thống này sản xuất ra một tỷ lệ thành công khá cao, nhưng các “sản phẩm
phụ” bị thải ra là một con số kinh khiếp của nhiều cuộc đời bị phí
phạm.
Ở Trung Quốc, để tuyển chọn được một tiềm năng huy
chương vàng, nhà cầm quyền phải sàng lọc qua hàng ngàn ứng viên. Thông
qua các cuộc khám nghiệm khe khắt, các ứng viên đầu tiên được lựa chọn
ra từ nhiều trẻ em trong các trường trung và tiểu học rồi gởi tới các
trung tâm huấn luyện thể chất để được tăng cường huấn luyện đặc biệt.
Có hơn 3000 trường huấn luyện thể chất thiếu nhi trên toàn quốc với 400
ngàn trẻ em, các em nhỏ tuổi nhất chỉ mới có 7 hay 8 tuổi. Rồi nhà cầm
quyền chọn ra các em xuất sắc nhất trong số này và đưa đi huấn luyện
riêng biệt. Những em tuyển lựa đặc biệt này được chải chuốt săn sóc cho
các cuộc tranh tài quốc gia và quốc tế.
Một phóng viên của tạp
chí Time đã đến thăm 3 trung tâm huấn luyện ở tỉnh Shandong: các Trường
huấn luyện thể chất Qingdao, Weifang; và Trường huấn luyện bóng bàn
Luneng. Bài báo đề cập đến một em gái 14 tuổi tên Chen Yun đến từ vùng
nông thôn, em được xem là có tài năng và tuyển chọn vào tập luyện môn
cử tạ sau khi được đo lường kích thước ở vai, chân và vòng bụng. Một
em trai khác được tuyển vào môn bắn cung vì em có khả năng tập trung,
bờ vai rộng, và thị giác tuyệt hảo. Cả hai em lúc đầu hoàn toàn chẳng
biết gì về các môn thể thao mà các em được chỉ định luyện tập, nhưng
chỉ vì phù hợp với các tiêu chuẩn thể chất do các huấn luyện viên đưa
ra. Thí dụ như, em nào có phản xạ nhanh và sự phối hợp xuất sắc giữa
mắt và tay thì được chọn cho môn bóng bàn. Cũng theo bài báo trên thì
tất cả các khẩu hiệu, bích chương dán trên tường tại các trung tâm huấn
luyện này đều mạnh mẽ khuyến khích các học viên hãy “Giành thắng lợi
cho Tổ quốc”.
Cả 3 trung tâm này đều là trường nội trú. Học
viên của Trường huấn luyện bóng bàn Luneng chỉ được phép gặp cha mẹ mỗi
năm không được hơn 2 tuần. Các em phải tập luyện ít nhất từ 5 đến 6
tiếng đồng hồ một ngày, đôi khi các buổi tập luyện kéo dài vào cả buổi
tối. Mặc dù các viên chức của nhà trường khẳng định rằng trường chỉ chủ
yếu chú tâm vào việc học hành, nhưng thật ngạc nhiên, người phóng viên
của báo Time không hề thấy có một quyển sách giáo khoa nào trong
trường. Một bé trai đang tập luyện để trở thành một ngôi sao điền kinh
cho người phóng viên biết, ngoài việc tập luyện, thì em chẳng làm gì cả
ngoài việc ngủ.
Thật đáng buồn, hầu hết tất cả các vận
động viên trẻ này không bao giờ thấy một cuộc tranh tài cho đến ngày họ
giành thắng lợi cho đất nước. Thậm chí ngay cả những cá nhân đã từng
đoạt huy chương trong quá khứ có thể sẽ gặp phải một tương lai khổ sở.
Theo báo Thể dục thể thao Trung Hoa, 80 phần trăm vận động viên quốc
gia thiếu trình độ giáo dục và hoàn toàn không có cách nào để kiếm sống
một khi những ngày huấn luyện để thi đấu đã trôi qua. Vì tập luyện quá
cam go khi còn trẻ, nhiều vận động viên đã vướng phải những bệnh tật
bám theo cả cuộc đời họ, hoặc thậm chí bị tật nguyền, chẳng hạn như cựu
nữ vô địch cử tạ Zou Chunlan.
Thảm cảnh của Zou Chunlan
Cựu
vô định cử tạ quốc gia Zou Chunlan thuộc tỉnh Jilin đã từng đoạt được 7
huy chương vàng và phá vỡ một kỷ lục thế giới. Nhưng cô chỉ được học có
3 năm tiểu học. Sau khi về hưu khỏi môn cử tạ vào năm 1993, Zou vào làm
viêc tại một nhà tắm công cộng nhưng đời sống kinh tế rất khó khăn. Còn
tồi tệ hơn, Zou bị chấn thương cả thân mình và các bắp thịt không co
giãn được, cho nên cô không thể mang vác nặng mặc dù cô từng là một lực
sĩ cử tạ. Ngay sau khi cô tham gia đội thể dục thể thao của tỉnh Jilin
lúc 16 tuổi, người ta bảo cô phải dùng kích thích tố nam tính (male
hormone) để tăng cường khả năng thi đấu. Cô được cung cấp các viên
thuốc này mỗi ngày trong suốt 6 năm trời. Thân thể cô phát triển nhiều
đặc tính của nam giới và không thể thụ thai sinh đẻ được. Zou nói rằng
nhiều vận động viên khác về hưu như cô đều trải qua những điều tương
tự. Ðược biết Trung Quốc có 3000 vận động viên về hưu hàng năm. Một
tác hại khác của hệ thống TDTT quốc gia Trung Quốc là nó làm nẩy sinh
ra một nhóm đặc quyền đặc lợi, phối hợp quyền lợi cuả các lực sĩ
thượng thặng, các huấn luyện viên và cán bộ quản lý vào với nhau. Các
huy chương vàng đem lại nhiều thanh danh và tiền bạc cho các lực sĩ và
huấn luyện viên, đồng thời những cán bộ liên hệ cũng được thăng quan
tiến chức nhanh chóng. Một hệ thống đã thúc đẩy mọi người phải đào ra
huy chương bằng bất cứ giá nào, là nguyên nhân khiến cho nạn tham nhũng
lan tràn. Lừa dối và tai tiếng đã trở nên rất phổ biến vào năm 2005,
trong dịp Ðại hội TDTT toàn quốc lần thứ 10, khiến các vận động viên
Trung Quốc phải loại trừ khỏi hàng ngũ của họ những kẻ vi phạm nặng nề
nhất. Nhiều người cho rằng chính hệ thống TDTT đã tạo ra các vấn đề
này, mãi mãi giết chết tinh thần thi đấu trong các cuộc tranh tài.
Ðồng
thời, các vụ tai tiếng dùng thuốc kích thích trong hàng ngũ vận động
viên Trung Quốc không bao giờ được báo chí trong nước đề cập đến. Nhiều
bằng chứng khả nghi cho thấy sự tiến bộ của các đoàn thể dục thể thao
Trung Quốc trong thập niên 1980s và 1990s có dính dáng đến việc xử dụng
thuốc kích thích để tăng cường khả năng thi đấu, nhất là đối với các
vận động viên nữ.
Xử dụng thuốc kính thích trong hàng ngũ vận động viên nữ.
Khi
đoàn bơi lội nữ Trung Quốc giành được nhiều thứ hạng cao trong các cuộc
tranh tài quốc tế trong thập niên 1990s, cả thế giới phải sửng sốt. Ở
Thế vận hội Barcelona 1992, đoàn bơi lội Trung Quốc đoạt 4 huy chương
vàng, 5 bạc và 1 đồng. Tại giải vô địch bơi lội thế giới ở Rome năm
1994, 7 tay bơi nữ Trung Quốc đoạt được 12 trong tổng số 16 huy chương
và tạo vài kỹ lục thế giới. Nhiều người đã nghi ngờ về sự thành công
bất ngờ này của Trung Quốc. Tại Á vận hội (Asian Games) năm 1994 tổ
chức ở Hiroshima, 11 lực sĩ Trung Quốc bị khám phá là đã dùng thuốc
kích thích, trong đó có hai tay bơi vô địch thế giới Li Bin và Yang
Aihua, và họ đã bị thu hồi huy chương.
Nhưng đây vẫn chưa phải
là lần cuối cùng các vận động viên Trung Quốc bị khám phá dùng thuốc
kích thích. Tay bơi nữ Wu Yanyan, người đã từng tạo kỹ lục thế giới môn
bơi 200 mét hỗn hợp, đã bị khám phá dùng thuốc kích thích và cấm không
được tranh tài tại Thế vận hội Sydney 2000. Sau năm 1994, đoàn bơi lội
Trung Quốc chỉ đoạt được 1 huy chương vàng và 1 huy chương bạc tại Thế
vận hội Atlanta 1996. Ở Sydney, họ không giành được một huy chương
nào. Tay bơi Luo Xuejun, người duy nhất đoạt được huy chương vàng cho
Trung Quốc ở Thế vận hội Athens 2004 đã thú nhận rằng “cái hồ bơi của
đoàn bơi lội Trung Quốc không được sạch sẽ cho lắm”.
Ðội điền
kinh quân đội nổi tiếng do huấn luyện viên Ma Junren của đội điền kinh
tỉnh Liao Ning cầm đầu, đã nhanh chóng huấn luyện được một loạt các lực
sĩ điền kinh nữ có đẳng cấp thế giới trong các môn chạy cự ly dài và cự
ly trung bình, giành được nhiều huy chương vàng trong nước. Người nổi
tiếng nhất trong nhóm này là Wang Junxia, đoạt huy chương vàng môn 5000
mét ở Thế vận hội Atlanta 1996. Ðược biết là một phần trong chế độ
luyện tập, huấn luyện viên Ma Junren buộc các lực sĩ phải uống thuốc hỗ
trợ sinh lực.
Mặc dù sự thành công này, vào năm 2000,
nhiều vận động viên của đội này không được tuyển vào đoàn lực sĩ Thế
vận Trung Quốc. Có nhiều tin tức cho rằng đó là vì lý do dùng thuốc
kích thích, nhưng điều này đã không được nhà cầm quyền Trung Quốc làm
sáng tỏ. Có trị giá hàng triệu đô la, huấn luyện viên Ma Junren vẫn giữ
chức cụ Phó giám đốc Uỷ ban TDTT tỉnh Liao Ning và phụ trách việc huấn
luyện môn điền kinh cự ly dài và cự ly trung bình cho đến năm 2004.
Nhưng bây giờ mọi người đều biết sự thành công của các vận động viên
dưới trướng ông Ma Junren là nhờ xử dụng thuốc kích thích.
Ở Tây
phương, các lực sĩ dùng thuốc kích thích thường là do quyết định cá
nhân, nhưng tại Trung Quốc, đây là một sự thực hành theo nguyên tắc có
hệ thống hẳn hoi. Theo lực sĩ cử tạ Zou Chunlan, các huấn luyện viên
của đội cử tạ thuộc sở TDTT tỉnh Jilin buộc các nữ vận động viên dùng
thuốc kích thích đã gây ra nhiều biểu hiện dị ứng như mọc râu trên mặt
và lông trên thân thể, cùng với giọng nói bị trầm xuống. Các huấn luyện
viên phải thú nhận rằng họ đã cho các vận động viên này dùng kích thích
tố nam tính sau khi các biểu hiện dị ứng xuất hiện, nhưng cứ khăng
khăng rằng nó không có hại gì cho cơ thể. Mặc dù được bảo là thuốc kích
thích rất an toàn, nhiều nữ vận động viên vẫn lo ngại về những ảnh
hưởng lâu dài, nhưng cảm thấy bất lực không tránh được phần này. Một số
ít đã ném bỏ thuốc. Theo cô Zou thì các vận động viên ngưng dùng thuốc
nửa tháng trước cuộc tranh tài và quay sang dùng loại thuốc tiêm khác
để dấu diếm kích thích tố khi bị thử nghiệm và vượt qua các cuộc kiểm
tra thuốc kích thích.
Sau khi vụ xì-căng-đan dùng thuốc kích
thích của Zou bị lộ tẩy, các cán bộ trong Uỷ ban TDTT tỉnh Jilin đe
dọa cô. Họ cho cô biết nếu cô nói ra sự thật, tất cả các huy chương
vàng mà cô đã đoạt sẽ bị coi như là giả dối.
Khi khối cộng sản
Ðông Âu xụp đổ, nhiều huấn luyện viên của Ðông Ðức bỗng nhiên bị thất
nghiệp, nhưng không lâu sau đó họ được Trung Quốc thuê mướn.
Sự
tiến bộ vượt bực mà đoàn bơi lội nữ Trung Quốc biểu lộ đã bắt đầu xảy
ra ngay sau khi Trung Quốc thu nhận các chuyên gia TDTT hồi năm 1985.
Năm kế tiếp đoàn bơi lội Trung Quốc giành được nhiều thắng lợi trước
Nhật Bản, vô địch Á Châu lúc đó, trong các cuộc tranh tài quốc tế.
Ðông
Ðức trở thành một mô hình kiểu mẫu cho Trung Quốc. Trước khi xụp đổ,
Ðông Ðức từng là một trong các nước đạt được nhiều thành tích cao nhất
về TDTT. Suốt 20 năm trời, Ðông Ðức đứng hàng thứ 3 trên thế giới về số
huy chương giành được ở các Thế vận hội, chỉ sau có Hoa Kỳ và Liên Xô.
Sức mạnh đằng sau các thành tích của Ðông Ðức là đoàn nữ vận động viên
điền kinh và bơi bội. Sau khi bức tường Bá Linh xụp đổ, phép lạ của
Ðông Ðức bị lộ tẩy –hầu hết các huy chương vàng thắng được là do dùng
thuốc kích thích. Chính quyền Ðông Ðức đã cung cấp một cách có hệ thống
nhiều loại thuốc khác nhau cho hơn 10 ngàn lực sĩ của họ, cùng lúc đó
nghiên cứu tìm các phương cách có hiệu quả để vượt qua các cuộc kiểm
tra. Việc dùng các loại thuốc bất hợp lệ đã giúp các vận động viên Ðông
Ðức gặt hái nhiều thành quả cao ở các Thế vận hội, nhưng nó cũng làm
cho họ bị bệnh tật hoặc tàn phế, các nữ lực sĩ vai u thịt bắp không có
khả năng sinh đẻ, và thậm chí trong vài trường hợp đưa đến chết chóc.
Sau
khi Ðông và Tây Ðức thống nhất, các nạn nhân của chương trình dùng
thuốc kích thích đã kiện bộ trưởng thể thao Ðông Ðức và cố vấn y dược,
đòi hỏi bồi thường cho những hậu quả xảy ra cho thân thể họ. Nhưng thay
vì bị trừng phạt, các huấn luyện viên và chuyên gia y khoa này lại xuất
cảng kế hoạch của họ. Trong 10 năm qua, có 27 nữ vận động viên Trung
Quốc bị khám phá là đã dùng thuốc kích thích –một tỷ lệ vượt xa khỏi tỷ
lệ của tất cả các nước khác cộng lại.
Những tiếng nói phản đối Hệ thống TDTT quốc gia Trung Quốc
Cho
đến nay, Tổng cục quản lý TDTT Trung Quốc vẫn thâu nhận những huấn
luyện viên đầy tai tiếng của Ðông Ðức. Tháng 2/2006, Helga Pfeiffer,
cựu nữ huấn luyện viên bơi lội –và là một tay lão luyện của hệ thống
dùng thuốc kích thích trong TDTT của Ðông Ðức –thấy xuất hiện ở lễ khai
trương Trung tâm huấn luyện Oriental Greenboat ở Thượng Hải. Cựu giám
đốc “Ðội nghiên cứu 415” Pfeiffer được một số người biết qua hỗn danh
“Nữ hoàng của việc dùng thuốc trong TDTT”. Trong hồ sơ bảo mật của
Ðông Ðức, Pfeifer là một thành viên cốt cán của của Kế hoạch quản lý
dùng thuốc trung ương. Sau khi thống nhất với Tây Ðức, Pfeifer bị buộc
tội là đã bắt các tay bơi trẻ phải dùng thuốc kích thích. Bây giờ ở
Trung Quốc, Pfeiffer tìm cách lẩn tránh các tội trên, trong khi tiếp
tục thực hành những kế sách tương tự.
Sau Ðại hội TDTT toàn
quốc năm 2005, ở khắp nơi trong Trung Quốc, nhiều người đã bắt đầu phê
phán chính sách TDTT hiện thời của nhà nước. Những tiếng nói này kêu
gọi cải tổ lại chương trình huấn luyện, huỷ bỏ Hệ thống TDTT quốc gia
do “huy chương lèo lái” và thay vào đó là một chính sách TDTT phục vụ
cho lợi ích sức khoẻ người dân. Nhưng khi Trung Quốc giành được quyền
đứng ra tổ chức Thế vận hội 2008, giới thẩm quyền Bắc Kinh lại bộc lộ
ra một quyết tâm còn lớn hơn nhắm vào mục tiêu vượt qua mặt Hoa Kỳ về
số huy chương vàng đạt được. Sức mạnh đằng sau “Hệ thống TDTT quốc gia”
được tăng cường, thậm chí một số lượng to lớn hơn của tài nguyên quốc
gia được dành riêng cho việc giành huy chương vàng Thế vận.
Tạp
chí Time nói rằng kế hoạch huy chương vàng của Trung Quốc là đưa tài
nguyên vào một số lớn các môn thi đấu có thể dễ dàng giành được chiến
thắng, chẳng hạn như cử tạ và kiếm thuật (fencing) có 10 huy chương
vàng, và chèo thuyền có 16 huy chương vàng. Mặc dù các môn thể thao này
hầu như chẳng dính dáng gì đến sự thích thú của người dân Trung Quốc,
nhưng một lượng lớn nguồn tài nguyên được đổ vào để bảo đảm thành công
trong cuộc tranh tài. So sánh với các nước Tây phương thì Trung Quốc đổ
nhiều tài nguyên hơn vào các môn thể thao nữ, vì họ đoạt được nhiều huy
chương hơn phái nam. Thí dụ như ở Thế vận hội Athens, trong tổng số huy
chương vàng đạt được bởi các nữ lực sĩ trên toàn thế giới, thì các nữ
lực sĩ Trung Quốc đoạt được 60 phần trăm. Sau Á vận hội
2002, Trung Quốc đã đề ra “Dự án 119”, nhắm vào việc giành được 119
(bây giờ là 120) huy chương vàng trong các môn điền kinh, bơi lội và
thể thao dưới nước. Với hy vọng là qua Dự án 119, Trung Quốc sẽ được
coi như là một nước đứng đầu thế giới về TDTT, thay vì chỉ là một nước
thích thu thập huy chương vàng ở các cuộc tranh tài không mấy quan
trọng.
Không biết mục tiêu này có thể hoàn thành được không thì
còn phải chờ xem, nhưng, kế hoạch của Hệ thống TDTT quốc gia của Trung
Quốc rõ ràng là đặt căn bản trên mô hình của Ðông Ðức ngày xưa.
Chủ
yếu là nhắm vào mục tiêu đoạt được nhiều huy chương, kế hoạch đằng sau
Hệ thống TDTT quốc gia của Trung Quốc được thừa hưởng từ Ðức quốc xã,
Liên Xô, và khối Ðông Âu. Trung Quốc coi TDTT là một công cụ tuyên
truyền dùng để kết hợp ý chí nhân dân, phô bày quyền lực cho chế độ và
tăng cường hệ tư tưởng cũng như sự kiểm soát của họ. Khi Mao Trạch Ðông
còn sống, thì hệ tư tưởng là chủ nghĩa cộng sản, nhưng ở lục địa Trung
Hoa ngày nay, nó là chủ nghĩa quốc gia cực đoan. Mặc dù sự chỉ trích về
chương trình này mỗi ngày một tăng ở khắp nơi, nhưng phó giám đốc Tổng
cục quản lý TDTT lại nói rằng: “Ðối với cá nhân tôi, thì tôi hy vọng là
Hệ thống TDTT quốc gia có thể tiếp tục được xử dụng sau Thế vận hội
2008”.
|