Tác giả bài viết: LỮ GIANG
_________________________________________________________________________________________
Về quyết định thảm sát
Khi bài này đến với độc giả, nhiều tổ chức trong cộng đồng người Việt hải ngoại đang tổ chức kỷ niệm 40 Tết Mậu Thân để tướng nhớ đến những người đã bị thảm sát trong biến cố đó. Nhưng một câu hỏi được đặt ra và chưa có câu trả lời: Tại sao Cộng quân đã hành động dã man như vậy?
Sau trận Mậu Thân ở Huế, một ủy viên huyện ủy của quận Phú Vang ở Thừa Thiên là Hồ Ty, bí danh Sơn Lâm, đã bị bắt. Trong cuộc thẩm vấn, Hồ Ty đã khai rằng việc thủ tiêu tất cả những người bị bắt là thi hành lệnh Quân Ủy Trị-Thiên-Huế. Sở dĩ có lệnh này là vì khi rút lui, bị quân đội VNCH và Mỹ truy đuổi quá gắt, lo cho đơn vị không nổi làm sao làm lo được cho tù binh được. Số người bị bắt theo quá nhiều làm vướng bận không thể rút lui nhanh được, nên đã có lệnh giết tất cả tù binh.
Tạp chí Time của Mỹ số ra ngày 31/10/1969, trong bài “The massacre of Hue” (Cuộc thảm sát ở Huế) đã đặt câu hỏi: “Điều gì đã khiến Cộng Sản tàn sát?” Rồi tạp chí này trả lời:
Nhiều người dân Huế tin rằng lệnh hành quyết được đưa thẳng từ Hồ Chí Minh xuống. Tuy nhiên, có lẽ chắc chắn hơn, đơn giản là Cộng Sản đã mất tinh thần. Họ đã bị nhồi sọ để tin tưởng rằng nhiều người dân miền Nam sẽ xuống đường tranh đấu cùng với họ trong cuộc tổng tấn công vào dịp Tết. Nhưng điều đó đã không xảy ra, và khi trận chiến ở Huế bắt đầu nghiêng về phía quân đồng minh, Cộng Sản đã hoảng sợ và giết sạch các tù nhân.
Mới đây, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 24.1.2008, ông Bùi Tín cũng đã đưa ra luận điệu tương tự:
Khi quân Mỹ đổ bộ lại từ Phủ Bài trở ra để lấy lại Huế thì anh em họ trói, di chuyển đi hàng mấy trăm tới hàng nghìn người. Do vướng chân, mệt, rồi bị pháo bắn ở ngoài biển vào dữ dội cho nên do phần lớn do tự động các chỉ huy trung đội tới trung đoàn đồng lõa với nhau để thủ tiêu không cho cấp trên biết.’’
Có một điều người ta quên là cuộc thàm sát đã xẩy ra trong khoảng 10 ngày đầu khi Cộng quân mới chiếm Huế khi Quân Lực VNCH và đồng minh chưa phản công, và nhiều mộ tập thể đã được tìm thấy ngay trong thành phố Huế.
Kế hoạch của Hà Nội
Đọc cuốn “Chiền trường Trị-Thiên-Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng” của Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế do nhà xuất bản Thuận Hóa Huế ấn hành năm 1985, chúng ta biết được quyết định của Hà Nội về việc chiếm Huế làm căn cứ lâu dài của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
1.Thành lập Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế
Năm 1965 và năm 1966, khi phong trào Phật Giáo đấu tranh nổi lên ở Huế chủ trương đi theo đường lối của MTGPMN, đòi hòa bình, rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam, đốt phòng thông tin và thư viện Mỹ ở Huế, v.v., Hà Nội nhận thấy rằng có thể chiếm Huế làm căn cứ địa lâu dài của MTGPMN vì hai lý do: Lý do thứ nhất là Huế có nhưng thành quách rất vững chắc, nếu chiếm giữ được, Quân Lực VNCH và đồng minh khó lấy lại được, trừ khi phá hủy thành phố. Lý do thứ hai là phong trào Phật ở Huế cho thấy các nhà lãnh đạo Phật Giáo ở đây ủng hội MTGPMN. Vì thế, Hà Nội đã lập một kế hoạch chiếm và giữ Huế rất kỹ càng.
Trước 1966, Trị Thiên là Phân Khu Bắc trực thuộc Quân Khu 5. Tháng 4 năm 1966, Thường Trực Quân Ủy Trung Ương ra quyết định thành lập Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế tách khỏi Khu 5, và đặt trực thuộc Trung Ương và Quân Ủy Trung Ương. Thiếu tướng Trần Văn Quang được cử làm Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế và Đại Tá Lê Minh làm Phụ tá kiêm Trưởng Ban An Ninh Quân Khu. Lê Chưởng, Phó Bí Thư Khu Ủy Trị Thiên Huế, được cử làm làm Chính Ủy.
Mới thành lập, Khu Ủy Trị Thiên Huế đã đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh của Phật Giáo tại Huế, nhưng thất bại. Tài liệu ghi lại như sau:
Trong tháng 5,1966 cả thành phố Huế hầu như hổn loạn, ngụy quân, ngụy quyền bị tê liệt. Nhưng do tương quan lực lượng không cân xứng và sự lãnh đạo trực tiếp của ta chưa đủ mạnh, địch đưa quân đến đàn áp khốc liệt và dìm trong bể máu. Các đơn vị ly khai đầu hàng, lực lượng Phật Giáo tan rã, cơ sở của ta trong trào một bị bắt, một số rút vào bí mật. Phong trào kéo dài được 96 ngày.
(tr. 111).
Báo cáo của Khu Ủy Trị Thiên Huế cho biết lúc đó tại Thừa Thiên có 398 chùa, 9 hòa thượng, 15 thượng tọa, 220 tăng ni sư sãi và 80.000 Phật tử. Báo cáo nói rằng “chính tinh thần dân tộc và ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân đã đánh bại quân địch ngay trên lãnh vực tôn giáo mà chúng ta đã ra sức lợi dụng.”
2. Lệnh chiếm Huế
Tài liệu cho biết:
“Ý đồ đánh vào thành phố Huế đã có từ lâu. Tháng 2, 1967 Đồng Chí Đặng Kính và Thanh Quảng ra báo cáo, Bộ đã chỉ thị cho Trị – Thiên nghiên cứu đánh vào Huế và thị xã Quảng Trị. Tháng 5, 1967, Thường Vụ Quân Ủy Trung Ương họp nhận định: “Tình hình phát triển của phong trào đã tạo ra khả năng đánh lớn vào thành phố Huế.”
(tr. 136).
Chỉ thị còn nói rõ hơn:
“Phấn đấu trong 7 ngày đêm hoàn thành mọi mục tiêu cơ bản, tập trung chủ yếu vào 2 ngày 3 đêm đầu. Dự kiến tình huống khó khăn, thì có thể phải một tháng hoặc nếu kéo dài 2, 3 tháng cũng phải chiếm lĩnh bằng được thành phố Huế và giữ đến cùng (dự kiến này chỉ phổ biến bằng miệnh cho cán bộ cao cấp)...”
“Nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, xây dựng chính quyền để phát triển thắng lợi...”
(tr. 110).
Những chỉ thị này cho thấy Hà Nội quyết định chiếm Huế và giữ Huế lâu dài rồi thiết lập một chính quyền tại đây. Ngoài Huế, không thành phố nào trên miền Nam được chỉ thị phải hành động như vậy.
3. Chuẩn bị tấn công Huế
Những mũi tấn công Huế (31/01/1968) Nguồn: images4.fotki.com
Việc tấn công Huế không phải dễ dàng vì mặt trận quá rộng lớn. Vì thế, để tấn công Huế, Quân Khu Trị Thiên Huế được lệnh phải chuẩn bị về lực lượng, tổ chức, tư tưởng, lương thực, phương tiện, nhất là phải chuẩn bị chiến trường.
Về quân số, Quân Khu Trị Thiên Huế chỉ có 2 trung đoàn chủ lực là E6 và E9, 4 tiểu đoàn bộ binh của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, 4 tiểu đoàn đặc công và các lực lượng pháo binh, công binh. Lực lượng này quá nhỏ bé, không đủ để mở cuộc tấn công Huế. Do đó, vào cuối năm 1967, Trung Ương đã tăng cường cho Huế Trung Đoàn 9.
Gần đến ngày nổ súng, Trung Ương đã tăng cường thêm: Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 324, Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 325. Sau đó tăng cường thêm Trung Đoàn 3/325 rồi Trung Đoàn 1/325. Sau khi chiếm được Huế, Bộ cho tăng cường thêm Trung Đoàn 141 để giữ Huế, nhưng quá muộn. Như vậy Trung Ương đã tăng cường cho Huế đến 5 Trung Đoàn. Với sự tăng cường này, Quân Khu Trị Thiên Huế đã có khoảng 7.500 quân.
Về lương thực, Quân Khu đã thu gom được 2000 tấn ở đồng bằng và 1000 tấn ở miền núi.
Về chính trị, an ninh và tuyên truyền, Quân Khu đã đưa khoảng 700 cán bộ từ thành phố Huế và đồng bằng lên chiến khu huấn luyện, phân công và ra lệnh phải hành động như thế nào sau khi đã chiếm được thành phố (tr. 141).
Chiếm Huế và lập chính quyền
Năm 1968, mồng một Tết Mậu Thân nằm vào ngày 30/01/1968 dương lịch. Lệnh tấn công được đưa ra vào luc 2 giờ 35 sáng 31/01/1968, tức sáng mồng 2 Tết. Cuộc tấn công được chia làm hai cánh. Cánh chính là cánh Bắc: Cộng quân tấn công vào Đồn Mang Cá, nơi có Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, sân bay Tây Lộc, khu cột cờ Đại Nội, khu Gia Hội, khu Chợ Đông Ba, v.v... Cánh thứ hai là cánh Nam: Cộng quân tấn công vào Tiểu khu Thừa Thiên, cơ sở cảnh sát, đài phát thanh Huế, cầu Kho Rèn, Tòa Đại Biểu Chính Phủ, Dinh Tỉnh Trưởng, nhà lao Thừa Phủ, nhà Ga, v.v...
Cộng quân chia Huế thành ba mặt trận: Mặt trận Thành Nội do Đại Tá Lê Trọng Đấu chỉ huy; mặt trận Quận Nhì (tả ngạn sông Hương) do Chính Ủy Hoàng Lanh và mặt trận Quận Ba (hữu ngạn) do Nguyễn Mậu Hiên bí danh Bảy Lanh.
Tuy nhiên, Quân Lực VNCH vẫn giữ được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, đài phát thanh Huế, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân.
Phải đến ngày 08/02/1968, tức hơn 7 ngày sau, Quân Lực VNCH và đồng minh mới huy động được lực lượng và chính thức phản công lại. Cuộc chiến rất ác liệt. Quân Lực VNCH và đồng minh đã xử dụng hỏa lực tối đa và tiến vào từng khu phố để đánh bật Cộng quân ra. Ngày 15/02/1968 Hà Nội ra lệnh cho Cộng quân phải tử thủ ở Huế đồng thời tăng cường thêm cho mặt trận Huế Trung Đoàn 141 để bảo vệ những cứ điểm đã chiếm được. Nhưng hỏa lực của Quân Lực VNCH và đồng minh quá mạnh nên Cộng quân được lệnh rút.
Sáng 25/02/1968 toàn thể khu Gia Hội được giải tỏa. Đại Đội Hắc Báo của Sư Đoàn 1/BB chiếm được Kỳ Đài, hạ cờ Cộng sản xuống và kéo cờ VNCH lên. Sau 25 ngày đêm giao tranh ác liệt, cuộc chiến ở Huế đã chấm dứt.
Vì các trận đánh ở Huế đã được mô tả đấy đủ trong cuốn “Cuộc tổng công kích – tổng khởi nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968” của Quân Lực VNCH nên chúng tôi thấy không cần ghi lại ở đây. Chúng tôi chỉ tìm hiểu Việt Cộng đã làm gì sau khi chiếm được Huế và tại sao các cuộc thảm sát đã xẩy ra trong khắp thành phố rồi lan rộng ra các vùng phụ cận.
Hoạt động sau khi chiếm Huế
Do sự chỉ đạo là huấn luyện từ trước, khi vào Huế, bộ đội lo chiếm các cơ sở quân sự và hành chánh quan trọng ở Huế, còn nhóm cán bộ chính trị, hành chánh và an ninh đã cùng với các thành phần nằm vùng tại địa phương thực hiện các công tác sau đây:
Về chinh trị: Ngày mồng 3 Tết (tức 1.2.1968) Hà Nội tuyên bối thành lập “Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hoà Bình tại Huế” do Tiền Sĩ Lê văn Hảo làm Chủ Tịch. Liên Minh này là một bộ phận của Liên Minh do Trịnh đình Thảo làm Chủ Tịch.
Lê văn Hảo gốc người Huế, sang Pháp học từ năm 1953, trở về Huế năm 1966 và dạy nhân chủng học đại học tại Huế và Sài gòn. Năm 1966, Hảo tham gia phong trào ly khai ở Huế và bị bắt sau đó được Đại Học Huế nhận ra. Giữa năm 1967, Hảo được Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm, một cán bộ cộng sản nằm vùng, móc nối vào Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Ngoài Lê Văn Hảo, Liên Minh còn có Phó Chủ Tịch là bà Tuần Chi (tên thật là Đào thị xuân Yến, chị vợ Nguyễn Cao Thăng) hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh và Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, đương kim Chánh Đại Diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh. Các thành phần nồng cốt của Linh Minh còn có: Nguyễn Đóa (cựu giám thị trường Quốc Học), Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Duy Nhân, Phạm Thị Xuân Quế, Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Hanh...
Về hành chánh: Khu Ủy Trị Thiên quyết định thành lập Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thành Phố Huế và giao cho Tiến sĩ Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch Ủy Ban, còn bà Tuần Chi (tức Đào Thị Xuân Yến) và Hoàng Phương Thảo, thường vụ Thành Ủy, làm Phó Chủ Tịch. Tuy nhiên, mọi quyết định đều năm trong tay Hoàng Phương Thảo.
Khu Ủy giao cho Hoàng Kim Loan (một cán bộ nằm vùng trong nhà Nguyễn Đóa), Hoàng Lanh (Thường Vụ Thành Ủy Huế) và Phan Nam (tức Lương) thành lập các Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng tại mỗi quận trong thành phố.
Hoàng Kim Loan phụ trách Thành Nội (Quận 1) đã đưa Nguyễn Hữu Vấn, Giáo Sư Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế lên làm Chủ Tịch. Phan Nam phụ trách Quận Tả Ngạn (Quận 2) đã giao chức chủ tịch cho Nguyễn Thiết (tức Hoàng Dung). Tại Quận Hữu Ngạn (Quận 3), Hoàng Lanh, vì phải dồn mọi nổ lực vào việc bắt các thành phần bị coi là Việt gian, ác ôn và phản động và đưa đi thủ tiêu, nên chưa kịp thành lập Ủy Ban Nhân Dân
Về an ninh: Đi theo quân đội chủ lực là các đại đội đặc công, võ trang tuyên truyền và các toán an ninh. Hoạt động về an ninh được đặt dười quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Minh, Phụ tá Bộ Tư Lệnh Quân Khu kiêm Trưởng Ban An Ninh Quân Khu. Trụ sở chính của Ban An Ninh được đật tại Chùa Từ Đàm.
Chỉ huy các toán an ninh là Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đình Bảy (tực là Bảy Khiêm) thuộc Khu Ủy Trị Thiên.
Ban An Ninh chia thành phố Huế thành 4 khu để phân chia trách nhiệm hành động:
Khu 1 là Quận 1, tức Thành Nội.
Khu 2 là Quận 2 thuộc vùng tả ngạn sông Hương, nhưng lấy cầu Gia Hội làm ranh giới rồi kéo dài về hướng Tây, qua khỏi cầu Bạch Thổ, xuống tận An Vân, tức bao gồm một phần của Quận Hương Trà.
Khu 3 là Quận 3, tức khu vực hữu ngạn sông Hương, nhưng bao gồm luôn cả giáo xứ Phủ Cam thuộc Quận Hương Thủy ở phía Nam sông An Cựu.
Khu 4 là phần lãnh thổ từ cầu Gia Hội đến Cổn Hến. Phần này vốn thuộc Quận 3.
Tống Hoàng Nguyên phụ trách Khu 1 và Khu 2, Nguyễn Đình Bảy phụ trách Khu 3 và Nguyễn Đắc Xuân đặc trách Khu 4.
Còn tiếp
---------------------------------------------------------------------------------------
Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ
http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4637
_________________________________________________________________________________________
Thảm sát Mậu Thân (Kết)
Thực hiện việc thảm sát
Trước khi Cộng quân mở cuộc tấn công Huế, các thành phần ly khai bỏ đi theo Việt Cộng từ năm 1966 và các tên nằm vùng đã lập sẵn danh sách những người mà chúng cho rằng cần phải thanh toán. Vì thế, khi mới vào Huế, chúng đã mở cuộc lục xét khắp nơi để tìm những người này.
Ngoài những người có tên trong “sổ đen”, các toán an ninh đi lùng bắt các thành phần bị coi là Việt gian, ác ôn hay phản động như công chức, binh sĩ VNCH, cảnh sát, nhân viên sở Mỹ, các thành phần đảng phái, người công giáo, v.v...
1. Tại Thành Nội (Quận 1) và một phần khu Tả Ngạn (Quận 2)
Hoàng Nguyên giao việc thanh lọc và xét xử cho cho hai sinh viên là Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do tại sao họ bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết án tử hình sau khi bị dọa, qui chụp và kết tội. Một số bị xử tử ngay tức khắc.
Phiên tòa tại Thành Nội và khu Tả Ngạn chỉ kéo dài trong 2 ngày là xong, sau đó một chiến dịch khủng bố đã được phát động: Một người mở trộm radio nghe đã bị đưa ra bắn giữa đường phố để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị đưa ra bắn. Nguyễn Đọc đã bắn nhiều người trong đó có một bạn thân đồng lớp với anh ta, chỉ vì anh này không chịu hợp tác với y.
2. Tại khu Gia Hội: Hoàng Nguyên giao Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường phụ trách
Hoàng Phủ Ngọc Tường tốt nghiệp đại học Huế, đi dạy học và là một trong các lãnh tụï sinh viên Phật Giáo đấu tranh chống chính quyền VNCH năm 1966, sau đó Tường đi theo MTGPMN.
Chùa Theravada ở đường Võ Tánh được dùng làm trụ sở để các công chức và quân nhân VNCH đến trình diện, Trường Trung Học Gia Hội của Dòng Mai Khôi (Phú Xuân) được dùng làm nơi giam giữ và xét xử các thành phần bị coi là Việt gian hay phản động. Theo Bác sĩ Elje Vannema, các phiên tòa ở đây đểu do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa.
Phản công tái chiếm Huế (Phía Nam cầu Tràng Tiền, Huế) Nguồn: images4.fotki.com
Người đi bắt và bắn chết các nạn nhân là tên Linh, người Quảng Ngãi, làm nghề thầy bói và khoác cái áo Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Cuộc tàn sát tại đây được thực hiện rất bừa bải và tàn bạo, chẳng hạn như hai anh Nguyễn Ngọc Lộ và Nguyễn Thiết bị hạ sát chỉ vì làm nghề nghề dạy võ thất sơn thần quyền, bị cho là một bộ phận của Đại Việt Quốc Dân Đảng. Hai anh đã bị chôn sống ngay trên con đường nhỏ rẽ vào Trường Trung Học Gia Hội sau khi bị đánh bằng cuốc vào đầu. Nghe nói vợ anh Lộ và ba cháu gồm hai gái một trai cũng bị giết tại nhà ở xã Phú Lưu.
Trong số những người bị giết tại Gia Hội, người ta thấy có các nhân vật sau đây: Ông Lê Văn Cư, Phó giám đốc cảnh sát quốc gia vùng một và ông Phú (em vợ anh Cư), Quận Trưởng Quận 2; ông Từ Tôn Kháng, thiếu tá Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn Thừa Thiên; ông Hồ Đắc Cam và ông Kim Phát, Việt Nam Quốc Dân Đảng; ông Trần Văn Nớp, Trưởng Phòng Hành Chánh Ty Cảnh Sát Thừa Thiên. v.v.
Nguyễn Đắc Xuân là người tổ chức và lãnh đạo “Đoàn Phật Tử Quyết Tử” tại Huế năm 1966 để chống lại VNCH. Khi bị đánh bại, Xuân đãù trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội “Công tác thanh niên” nhắm mục đích khuyến dụ các quân nhân VNCH và cảnh sát bị kẹt ở Huế ra trình diện.
Với quân nhân VNCH, Xuân thành lập “Đoàn Quân Nhân Sư Đoàn 1 ly khai” và bắt Đại Úy Nguyễn Văn Lợi, Tiểu Đoàn Phó Thiểu Đoàn 4, Trung Đoàn 2, mới từ Đồng Hà trở về ăn Tết làm Trưởng Đoàn. Sau đó, Xuân lập “Đoàn Nghĩa Binh Cảnh Sát”, bắt ép Quận Trưởng Hữu Ngạn là Nguyễn Văn Cán ra chỉ huy.
Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau, Bộ Tư Lệnh Quân Khu ra lệnh giải tán hai tổ chức này. Đột nhiên, ngày 18.2.1968, toán an ninh ra lệnh cho các công chức và quân nhân phải ra trình diện lần hai tại Trường Gia Hội rồi giữ lại và đem đi thủ tiêu luôn.
3. Tại khu Hữu Ngạn (Quận 3)
Toán an ninh ở khu Tả Ngạn không lập tòa án để xét xử các nạn nhân như ở khu Thành Nội và khu Gia Hội. Tại đây, các nạn nhân bị bắt đều bị đưa về giam ở chùa Từ Đàm, bắt làm tờ khai và được thanh lộc rồi đưa đi thủ tiêu. Số nạn nhân ở khu vực này đông nhất vì gồm những người đến ẩn nấp trong khu Dòng Chúa Cứu Thế và nhà thờ chính tòa Phủ Cam.
Tại khu Dòng Chúa Cứu Thế: Khu Hữu Ngạn (tức Quận 3) do Nguyễn Mậu Hiên, bí danh Bảy Lanh đánh chiếm. Bảy Lanh là con nuôi của nhà thuốc bắc Thiên Tường tại chợ An Cựu. Hai con trai của nhà thuốc Thiên Tường là cán bộ Việt Cộng nằm vùng ở cơ quan Xây Dựng Nông Thôn, Vì thế, khi Bảy Lanh vừa làm chủ vùng An Cựu, ông Thiên Tướng và hai người con đã đi lùng bắt tất cả những công chức, quân nhân, cảnh sát, thành phần đảng phái... trong khu vực Dòng Chúa Cứu Thế.
Tiếp theo, chúng lùa khoảng 150 người đang ẩn trú trong Dòng Chúa Cứu Thế ra sân để thanh lọc. Chúng xét hỏi giấy tờ của từng người. Những ai có căn cước ghi là quân nhân hay công chức đều được đưa ra khỏi hàng ngay, trong đó có Thượng nghị sĩ Trần Điền. Có khoảng 500 người trong khu vực này bị bắt đưa về chùa Từ Đàm. Về sau, cả ba cha con ông Thiên Tướng đều bị bắt.
Tại nhà thờ Phủ Cam: Nhà thờ này lúc đó chỉ mới được xây xong phần cung thánh và hai cánh tả hữu, nhưng có tường rất dày và trần được đúc bằng bê-ton cốt sắt, nên có thể che chở phần nào bom đạn. Do đó, có trên 3.000 người đã đến ẩn nấp tại đây. Khoảng 1 giờ đêm 7.2.1968, du kích và các toán an ninh đã vào lục soát nhà thờ, sau đó chúng bắt những người từ 15 đến 50 tuổi đứng lên, không phân biệt thành phần. Có khoảng 500 người thuộc lớp tuổi này. Chúng tuyên bố: “Các anh được đưa đi học tập 3 ngày rồi trở về.” Sau đó chúng dẫn những người này đi về chùa Từ Đàm và bắt làm tờ khai. Thỉnh thoảng chúng đưa một người ra gốc cây bồ đề trước sân chùa và bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Về sau, người ta đếm được có 20 xác.
Hai hôm sau, vào lúc trời tối, các toán an ninh gọi mọi người ra sân, lấy dây điện thoại trói ké lại, rồi dùng dây kẻm gai xâu 20 người lại một xâu, và dẫn đi về phía Nam Giao.
Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, Cộng quân viện lý do chiến tranh sắp xẩy ra trong vùng nên ra lệnh cho dân chúng tập trung vào bệnh viện. Sau ba ngày, họ bảo đàn bà và trẻ con ngồi xuống, còn đàn ông đứng dậy. Sau đó, chúng đưa hai tên nằm vùng đến nhận diện. Hai tên này vừa mới được xổ tù khi Cộng quân chiếm thành phố. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa Phủ Cam và từ đó họ được đưa lên chùa Từ Đàm.
Tất cả những người bị giam ở chùa Từ Đàm đểu được lần lượt dẫn đi về phía Tây Nam và hạ sát tại những nơi khác nhau, kể cả ở Khe Đá Mài, cách Huế khoảng 26 cây số. Theo tạp chí Time ngày 31.10.1969, trong số các nạn nhân bị giết tại đây có 398 người là giáo dân Phủ Cam. Cách giết người của Cộng quân cũng đặc biệt. Cộng quân ra lệnh cho những người bị bắt phải đào hố, nói là để làm hầm trú ẩn tránh bom đạn, hoặc để làm mương dẫn nước cho dân chúng cày cấy. Sau khi đào xong, Cộng quân trói thúc ké tay chân nạn nhân và quăng xuống hố rồi lấp đất lại. Có người cho rằng Cộng quân phải chôn sống như vậy vì sợ bắn sẽ gây tiếng động và để lộ mục tiêu.
Con số nạn nhân
Trong cuốn “Công và Tội”, ông Nguyễn Trân cho biết: “Về phía dân chúng, có 5.800 người chết, trong đó có 2.800 người bị Việt Cộng giết và chôn tập thể: 790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán tội “cường hào ác bá”, 1892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, hằng trăm thanh niên tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Đức và vợ, và một số người Phi Luật Tân.” Trong “Encyclopedia of the Viet Nam War”, David T. Zabecki ghi nhận rằng số thi hài nạn nhân tìm được trong các mồ chôn tập thể ở Huế là 2.810 người và hàng ngàn người bị mất tích.
Trong cuốn “The Vietcong Massacre at Hue” (Vintage Press, New York, 1976), Bác sĩ Elje Vannema, người có mặt tại Huế trong biến cố Tết Mậu Thân, cho biết theo tài liệu kiểm kê được qua 22 mồ tập thể, số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người, chia ra như sau:
Trường Gia Hội: 203 người; Chùa Theravada [Gia Hội]: 43; Bãi Dâu [Gia Hội]: 26; Cồn Hến [Gia Hội]: 101; Tiểu Chủng Viện: 6; Quận Tả ngạn: 21; Phía đông Huế: 25; Lăng Tự Đức và Đồng Khánh: 203; Cầu An Ninh: 20; Cửa Đông Ba: 7; Trường An Ninh Hạ: 4; Trường Văn Chí: 8; Chợ Thông: 102; Lăng Gia Long: 200; Chùa Từ Quang: 4; Đồng Di: 110; Vinh Thái: 135; Phù Lương: 22; Phú Xuân: 587; Thượng Hòa: 11; Thủy Thanh – Vinh Hưng: 70; Khe Đá Mài: 428.
Trong cuốn “Viet Cong Strategy of Terror” (tr. 23 đến 29) Giáo Sư Douglas Pike cho biết qua vụ Tết Mậu Thân ở Huế, có khoảng 7.600 nạn nhân của Cộng Sản, trong đó 1.946 người bị mất tích.
Tại sao phải thảm sát?
Những sự kiện cụ thể chúng tôi vừa trình bày trên cho thấy:
(1) Việc chiếm Huế làm căn cứ địa cho MTGPMN là một quyết định được Hà Nội nghiên cứu kỹ càng và ra lệnh cho Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị Thiên Huế thi hành. Cán bộ thi hành cũng đã được huấn luyện trước. Do đó, không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương quyết định tàn sát mà không có lệnh từ trung ương.
(2) Đa số các cuộc thảm sát đã diễn ra trong thời gian từ 2 đến 12.2.1968, tức trong thời gian Cộng quân còn chiếm đóng Huế. Các nạn nhân thường được kiểm tra hay xét xử rồi mới giết. Rất nhiều mộ tập thể đã được tìm thấy ngay trong thành phớ Huế, nhất là tại khu Gia Hội. Điều này cho thấy không phải vì bị vướng chân khi rút quân nên Cộng Sản mới tàn sát tâp thể để có thể rút nhanh như một số người đã biện hộ cho Cộng Sản.
(3) Đến tối 24.2.1968 Cộng quân mới ra lệnh rút quân toàn bộ khỏi Huế. Tài liệu của Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị Thiên Huế nói rằng có 23.702 tên quân địch, trong đó có 8.000 Mỹ, đã bị diệt, bắt sống và ra hàng (tr. 153). Như vậy số quân nhân Quân Lực VNCH và Mỹ đã bị tiêu diệt hoặc bắt sống lên đến khoảng 3 sư đoàn, trong khi đó số quân VNCH và Mỹ được dùng để tái chiếm Huế chưa đến 2 sư đoàn! Giả thiết tài liệu của Cộng quân là đúng và số người đã bị họ bắt đi theo đã bị giết tập thể để khỏi bị vướng chân..., vậy những người này đã được chôn ở đâu? Các cuộc tìm kiếm sau Tết Mậu Thân không cho thấy có các quân nhân VNCH và Mỹ được chôn trên đường rút quân của Cộng quân.
Chỉ có một trường hợp bị bắn khi Cộng quân rút lui là trường hợp những thanh niên bị bắt gia nhập quân MTGPMN. Những thanh niên không chịu đi theo đều bị bắn tại chỗ. Tại Gia Hội, người ta khám phá ra xác của 18 thanh niên bị bắn chết vì không chịu đi theo. Có khoảng 600 thanh niên vì sợ bị bắn phải đi theo họ.
Tóm lại, lập luận cho rằng các nạn nhân đã bị tàn sát vì làm vướng chân Cộng quân khi rút lui là hoàn toàn láo phét. Đảng CSVN đã duy trì kỷ cương rất chặt chẽ trong khi hành quân nên không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương tự ý ra lệnh tàn sát tập thể như một số người đã biện minh cho Hà Nội. Phải có lệnh của trung ương, các cán bộ cấp dưới mới làm như vậy. Nhưng vấn đề được đặt ra là: Tại sao Đảng CSVN đã đưa ra quyết định tàn sát tâp thể như thế?
Có tác giả cho rằng sở dĩ Hà Nội đã đưa ra quyết định tàn sát tập thể vì lý do an ninh. Hà Nội muốn chiếm Huế và giữ Huế lâu dài như là một căn cứ địa của MTGPMN. Do đó, để bảo vệ an ninh trong vùng chiếm đóng, Hà Nội đã ra lệnh thanh toán tất cả những thành phần bị coi là cho thể gây nguy hại cho an ninh như tuyên truyền chống đối, quấy rối, làm nội ứng, hình thành các nhóm võ trang chống lại lực lượng chiếm đóng, v.v...
Ngoài những tiêu chuẩn thanh toán mà Hà Nội đã đưa ra, các nhóm Phật Giáo đấu tranh chống VNCH bỏ đi theo MTGPMN từ năm 1966, khi trở lại đã đi tìm và thanh toán những người trước đây không đồng ý hay chống lại chủ trương của họ, đặc biệt là những người Công Giáo.
Nhưng Hà Nội đã có nhận định sai lầm về quyết tâm của Quân Lực VNCH và sự hưởng ứng của quần chúng Phật tử ở Huế. Quân Lực VNCH và đồng minh đã xử dụng hỏa lực tối đa, bất chấp những sự hư hại cho cố đô, để đánh bật Cộng quân ra khỏi thành phố, còn quần chúng Phật tử chỉ có một số nhỏ theo họ. Do đó, quyết định chiếm Huế làm căn cứ địa đã thất bại.
Bài do tác giả LỮ GIANG gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ
http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4641