Trần Gia Phụng
Một người đến tuổi trưởng
thành, lập gia đình là chuyện bình thường. Nhưng bản thân Hồ Chí Minh
cũng như đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn xưng tụng ông Hồ là một người
chỉ nghĩ đến việc phục vụ đất nước nên không có thời giờ lập gia đình,
và không có vợ con. Thực sự có phải như thế không?
1. Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc:
Tang Tuyet Minh
Tăng Tuyết Minh: thời xuân sắc và lúc tuổi già mòn mỏi đợi chờ (với ảnh vẫn trên tường)Nguồn: http://www.dprk-cn.com/
Hồ Chí Minh Có Mấy Vợ? Khoảng
giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý Thụy, đáp tàu thủy
từ Vladivostok (Liên Xô) đến Quảng Châu (Trung Hoa) với tư cách là thư
ký kiêm thông ngôn cho phái đoàn cố vấn Borodin (Liên Xô) bên cạnh
chính phủ Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu, trong giai đoạn liên minh quốc
cộng lần thứ nhất ở Trung Hoạ Trong thời gian sống ở Quảng Châu, ngoài
những hoạt động chính trị, Lý Thụy lấy một cô gái Quảng Châu tên là
Tăng Tuyết Minh, đảng viên đảng Cộng Sản Trung Hoa, làm nghề nữ hộ
sinh, ngày 18-10-1926. Sau đây là lá thư của Lý Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng Đông Dương phát hiện ngày 14-8-1928: Dữ
muội tương biệt, Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình thâm, Bất ngôn tự
hiểụ Từ nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã da
vọng. Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thụy. Tóm dịch: Cùng
em chia tay nhau, Thấm thoát nháy mắt đã hơn năm, Nhớ nhung tình sâu,
Không nói cũng tự biết. Nay nhân gởi tin hồng nhớn, Xa xôi gởi lá thư
mang tấm lòng, Mong em yên tâm, Là điều anh trông ngóng. Cũng xin vấn
an nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về Thụy. Thư Lý Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng (Công an) Đông Dương phát hiện ngày 14/8/1928 Nguồn: Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l'Indochine au Vietnam. Theo
tác giả Daniel Hémery, L Thụy không gặp lại được Tăng Tuyết Minh từ sau
năm 1927, có thể vì Tuyết Minh bị thất lạc do chiến tranh quốc cộng ở
Trung Hoa vào đầu năm 1927. (1) Cộng Sản Hà Nội phủ nhận mối quan hệ
giữa Lý Thụy và Tăng Tuyết Minh. Họ cho rằng nếu lá thư có thật, chẳng
qua là Lý Thụy thường thông tin với các đồng chí dưới dạng thư tình để
qua mặt giới tình báo của các nước tới Quảng Châụ Chú ý đọc kỹ lá thư
với lời lẽ rất thân thiết lãng mạn (muội, huynh, tình thâm) thì không
thể là thư liên lạc bình thường.
2. Nguyễn Thị Minh Khai, người đồng chí: Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941), một trong những đảng viên đầu tiên của đảng CSĐD Nguồn/Ảnh: Ho Chi Minh, A life, William J. Duiker/TTXVN
Nguyễn
Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tới Vinh (Nghệ
An), con ông Nguyễn Huy Bình là nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn
Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh Khai học trường tiểu
học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng,
sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm
1930. Ở Hồng Kông, tới trụ sở chi nhánh Bộ Đông Phương của Quốc tế cộng
sản, hằng ngày, vào buổi sáng, Minh Khai học chính trị do Lý Thụy đích
thân truyền dạỵ Từ đó nẩy sinh tình cảm nam nữ giữa hai ngườị (2) Tháng
4-1931, Minh Khai bị bắt ở Hồng Kông, đến đầu năm sau thì được thả rạ
Trong khi đó, Lý Thụy cũng bị bắt và bị trục xuất ra khỏi Hồng Kông. Lý
Thụy qua Quảng Châu, lên Thượng Hải, đáp tàu đi Vladivostok, rồi Moscow.
Ngày
25-7-1935, tới Moscow khai mạc đại hội cộng sản quốc tế. Phái đoàn đại
diện đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm có: Lê Hồng
Phong, Quốc, Kao Bang, vợ Quốc và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao
đến. (3) Khi đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và
mở ngoặc tên chồng là Lin. Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó.
(4) Cũng theo nguồn tài liệu nầy, những phiếu ghi nhận đồ đạc trong
phòng riêng hai người tới nhà ở tập thể của các cán bộ cộng sản cũng
đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng, chung giường,
chung đồ dùng... (5) Theo lời con gái của bà Vera Vasilieva (bà nầy là
một nhân viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng Sản), kể cho nhà nữ
sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Thành Tín viết lới trong
Về ba ông thánh, thì trong thời gian diễn ra đới hội nầy, ông Lin (tức
Hồ chí Minh) hay ghé lới nhà bà Vera Vasilieva thăm, và thư ờng đi cùng
với một phụ nữ Việt Nam tên là Phan Lan. Phan Lan là bí danh của Nguyễn
Thị Minh Khai dùng khi ở Moscow. (6)
Minh Khai học ở Viện Thợ
thuyền Đông Phương tức trường Staline đến tháng 2-1937 thì về nước qua
đường Pháp, đến Sài Gòn năm 1938. Năm 1940, Khai bị bắt, bị lên án tử
hình, và bị bắn tại Hóc Môn năm 1941. Theo tài liệu của đảng Cộng
Sản Việt Nam, Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong (tức Lê Huy
Doãn), và có với Phong một người con gái tên Lê Thị Hồng Minh, sinh năm
1939. Nhưng trước khi làm vợ Lê Hồng Phong, những tài liệu trong tờ
khai lý lịch và những câu chuyện do bà Sophia Quinn Judge đưa ra cho
thấy một thời Minh Khai đã là vợ của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh.
Nhà báo Thành Tín còn đi xa hơn nữa khi đặt câu hỏi biết đâu tên Hồ Chí
Minh là kỷ niệm về Minh Khaị Ngoài ra ông Hồ còn lấy tên là T. Lan để
viết một quyển sách tự truyện tựa đề là "Vừa đi đường vừa kể chuyện".
Cũng theo tác giả Thành Tín, biết đâu chữ Lan cũng lấy từ Phan Lan, bí
danh của Minh Khai khi ở Moscow. (7)
3. Đỗ Thị Lạc là ai ? Sau
đại hội Moscow ngày 25-7-1935, Lê Hồng Phong (1902-1942) được Quốc tế
Cộng Sản gởi về nước hoạt động, còn Nguyễn Tất Thành (hay Lý Thụy,
Nguyễn Ái Quốc) bị thất sủng và bị giữ lại ở Liên Xô cho đến cuối năm
1938, Thành được gởi về Trung Hoa dưới một tên mới là Hồ Quang, điều
khiển ban Hải ngoại đảng Cộng Sản Đông Dương.
Đầu năm 1940, Lê
Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết, đưa vào Sài Gòn, bị đày đi Côn đảo rồi
chết ở ngoài đó năm 1942. (8) Trong khi đó, cuối năm 1940, Nguyễn Tất
Thành bắt đầu sử dụng thông hành mang tên Hồ Chí Minh, ký giả một báo
do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển.(9) Vào đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về
nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. (10) Sau
khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, và tổ chức
hội nghị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 (tháng 5-1941),
đưa Trường Chinh đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm Tổng bí thư đảng, Hồ
Chí Minh qua Trung Hoa tiếp tục hoạt động, đánh phá các cơ sở cách mạng
không cộng sản, và kiếm cách xin Trung Hoa viện trợ. Cuối tháng 8-1942,
Hồ bị chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ đến tháng 9-1943.(11)
Ra
khỏi tù, Hồ luôn luôn kiếm cách lấy lòng các tướng quân Trung Hoa ở
Liễu Châu như Trương Phát Khuê, Tiêu Văn. Lúc bấy giờ, phía Trung Hoa
đang có sự hợp tác quốc cộng để chống Nhật. Tướng Tiêu Văn áp lực các
tổ chức cách mạng Việt Nam hợp nhất với nhaụ Dầu bị Việt Nam Quốc Dân
Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội phản đối, Tiêu Văn vẫn cho
tiến hành đới hội tới Liễu Châu ngày 28-3-1944 gồm đới biểu của tất cả
các tổ chức chính trị Việt Nam. Các phe phái không cộng sản và cộng sản
tranh luận gay gắt, nhưng cuối cùng cũng bầu ra được một ban chấp hành
mới gồm có bảy ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết là Hồ Chí
Minh, và ba ủy viên giám sát. (12)
Trong danh xưng mới, Hồ khéo
léo ẩn mình, rất được Tiêu Văn tin cậỵ Hồ đề nghị Tiêu Văn cho mình về
nước cùng một số cán bộ đã được Trung Hoa huấn luyện, và một số súng
đớn, thuốc men và tiền bớc. Tiêu Văn đồng Ọ cho Hồ về Việt Nam với 18
cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự ựới Kiều (gần Liễu
Châu), cộng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự
và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào
gần cuối năm 1944. (13) Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có
Đỗ Thị Lạc tức "chị Thuần."
Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được
rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa
là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các
tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo
học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một
thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi
Nậm gần Pắc Bó. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một cơn gió bụi đã
cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh.(14)
Do
tình hình biến chuyển, Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt
liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS dưới bí danh Lucius vào tháng
3-1945. (15) Đầu tháng 5-1945, Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng)
thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị
cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó. Chuyện tình giữa Hồ với
Đỗ Thị Lạc, cũng như với Minh Khai, Tăng Tuyết Minh bị giấu nhẹm, nên
sau đó không còn dấu vết gì nữa.
4. Nông Thị Xuân, gái sơn cước:
Nong thi Xuan
Sau
khi hiệp định Genève được ký ngày 20-7-1954, đất nước chia hai, hòa
bình tái lập, Hồ Chí Minh về Hà Nội làm chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (Bắc Việt). Ban bảo vệ sức khỏe trung ương, chuyên trách sức
khỏe các nhân vật cao cấp, đã tuyển 1 phụ nữ thuộc "gia đình cách mạng"
(16) tên là Nông Thị Xuân, người làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa
An, tỉnh Cao Bằng, thuộc sắc tộc Nùng. Cô Xuân được đưa về Hà Nội sống
với ông Hồ năm 1955. Lúc đó, ông Hồ đã khoảng 65 tuổi, còn cô Xuân 22
tuổị Sau vài tháng có thêm một em gái của cô Xuân tên là Vàng, và một
em gái con cậu ruột là Nguyệt cũng được đưa theọ Cả ba được sắp đặt
sinh sống trong ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, gần đường Quang
Trung, Hà Nộị Thông thường, để giữ bí mật về mối quan hệ giữa Nông Thị
Xuân và Hồ Chí Minh, chính bộ trưởng bộ Công an của chính phủ Hà Nội là
Trần Quốc Hoàn đưa cô Xuân vào gặp ông Hồ, rồi sau đó chở về.
Bà Xuân rất được ông Hồ ưa thích, và có với ông Hồ một con trai năm 1956, đặt tên là Nguyễn Tất Trung,
nhưng trước sau ông Hồ vẫn không cho bà Xuân vào ở phủ chủ tịch với
ông, và không làm lễ cướị Thế rồi bỗng nhiên "vào một buổi sáng mùa
xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng
chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm [Hà Nội]. Xác chết được đưa vào bệnh viện
Việt Đức, được nhận dạng, đó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ
theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn..."
(17)
Theo tác giả Nguyễn Minh Cần, lúc xảy ra vụ án ông là Phó
chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội (tức Phó thị trưởng), thì
Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng bộ Công An chính phủ Hà Nội, nhiều lần đến
nhà bà Xuân để hãm hiếp bà từ ngày 6-2-1957, và cuối cùng đã giết bà
Xuân ngày 11-2-1957 bằng cách đánh búa vào đỉnh đầu (theo khám nghiệm
của bác sĩ), rồi quăng xác ở dốc Cổ Ngự Điều nầy chứng tỏ thẩm quyền
tối cao về chính trị tới Hà Nội lúc đó, hoặc Hồ Chí Minh, hoặc Bộ Chính
trị trung ương đảng, hoặc cả hai bên, đã quyết định thanh toán bà Xuân
khi bà nầy muốn công khai hóa mối liên hệ giữa bà với ô ng Hồ và đòi
chính thức nhìn nhận đứa con, nên Trần Quốc Hoàn mới dám làm hỗn với bà
Xuân trước khi giết. Nong thi Xuan sau khi sanh Nguyen tat Trung nam 1956
Người
chứng kiến việc chị mình bị hãm hiếp và bị đem đi giết chết là cô Vàng
cũng bị thủ tiêu khoảng ngày 2 hay 3-11-1957. (18) Ở đây, có lẽ nên mở
một dấu ngoặc để tìm hiểu vì sao Trần Quốc Hoàn, ủy viên bộ Chính trị,
bộ trưởng bộ Nội vụ nắm giữ ngành công an là một bộ quan trọng trong
chế độ cộng sản, quyền lực đầy đủ trong tay, dư điều kiện và phương
tiện để hành lạc trác táng, lại hành xử lạ lùng như vậỷ Trước hết, tuy
được coi là lãnh tụ số một của chế độ cô .ng sản Hà Nội lúc bấy giờ, Hồ
Chí Minh không được các lãnh tụ khác cũng như bộ hạ thực tâm kính trọng.
Điều
nầy được bộc lộ rõ nét trong những quan hệ riêng tư nội bộ mà dân chúng
bên ngoài không được biết, ví dụ tuy bà Xuân đã từng là vợ của Hồ Chí
Minh, Trần Quốc Hoàn vẫn xem thường và xài xễ cho bỏ ghét. Cũng có thể
việc xài xễ nầy bắt nguồn từ quan niệm dùng người hết sức tàn bạo của
cộng sản: đó là khi một người đã hết sử dụng được thì tuyệt đối không
còn được chút lưu tình chút nào, và bị coi là một thứ công cụ vứt đị Hồ
Chí Minh quyết định thanh toán bà Xuân, cho Trần Quốc Hoàn muốn làm gì
thì làm; hoặc Trần Quốc Hoàn biết bà Xuân sắp bị thanh toán, coi bà như
một thứ đồ dùng, xài kẻo phí của trờị Ngoài ra, hành vi của Trần Quốc
Hoàn còn chứng tỏ một tâm lý kiêu hãnh và tự cao, lãnh tụ số một dùng
được thì "ta" cũng dùng được, "ta" có thua gì lãnh tụ đâu?
Sau
khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì
là cô Vàng nuôi, nhưng rồi bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng
(1904-1979), bí danh Sao đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé
Trung năm tuổi (1961), người ta lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôị
Chu Văn Tấn cùng sắc tộc Nùng với bà Xuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị
cứu quốc quân đầu tiên của cộng sản ở vùng rừng núi Việt bắc. Khi ông
Hồ qua đời ngày 2-9-1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận
Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung. (19) Ngoài bốn nhân vật
chính trên đây, theo tác giả Thành Tín tức cựu đại tá Bùi Tín của quân
đội cộng sản Hà Nội, trong cuộc đời Hồ Chí Minh còn có một vài cuộc
tình nhỏ như khi còn ở Paris, ông Hồ có một người tình tên là Marie
Bière, lúc sang Hoa Nam, ông Hồ yêu bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ Chu Ân Laị
Sau đây là lời Thành Tín viết về hai "mối tình con" nầy của ông Hồ: "...
Nguyễn Lương Bằng (1904–1979) Nguồn: www.congdoanbdvn.org.vn
Theo
tài liệu ở Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một
cô đầm tên là Marie Bière nào đó..." Ở một đoạn khác, Thành Tín tiếp :
"... Theo chị Sophia, có người kể với chị là ông Hồ còn có lúc yêu cả
vợ ông Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu, khi gặp nhau ở Hoa Nam thời trẻ
ông cũng có lúc có tình cảm mặn nồng với cả chính bà Véra Vasiliévạ Chị
Sophia kể rằng con gái bà Véra Vasiliéva nhớ lới rằng anh thanh niên
Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước
hoa cực thơm..." (20)
Marie Bière
Sau
hiệp định Genève, trước vụ cô Xuân, ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội
có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để điều hòa tâm sinh lý, giúp giữ gìn sức
khỏe được tốt. Người ta chọn cho Hồ Chí Minh một nữ cán bộ trẻ đẹp là
cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Thanh Hóạ (21) Khi về Hà
Nội gặp họ Hồ, cô Phương Mai đồng ý lấy ông Hồ với điều kiện là phải
danh chánh ngôn thuận, nghĩa là phải làm lễ cưới công khai đàng hoàng.
Ông Hồ và các cán bộ lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội cho rằng ông Hồ
không lấy vợ thì có lợi cho uy tín chính trị hơn (?) nên cuối cùng việc
cô Phương Mai không thành. Về sau, cô Phương Mai được đưa lên làm thứ
trưởng bộ Thương binh trong chính phủ Hà Nộị (22)
Qua các cuộc
tình của Hồ Chí Minh, và nhất là qua sự kiện Nông Thị Xuân và Nguyễn
Thị Phương Mai, người ta thấy rõ ông Hồ và cả đảng Cộng Sản Việt Nam
muốn ông ta có cơ hội giải quyết sinh lý của một con người bình thường,
nhưng không chịu công khai hóa một cách danh chánh ngôn thuận đời sống
vợ chồng, nhắm tạo cho ông ta thành huyền thoại về một siêu nhân suốt
đời sống cô đơn, hy sinh bản thân cho đới cuộc của đất nước. Đó là chưa
kể chính bản thân của ông Hồ là một người say mê công danh đến cùng
tột, và sự say mê đó được thể hiện rõ qua việc đảng Cộng Sản đã in cả
hàng chục triệu quyển sách để thần thánh hóa ông Hồ, mà ông vẫn chưa
thỏa mãn. Ông ta còn lấy những bút hiệu khác để viết sách tự đề cao
mình. Đó là hai quyển Những mẩu chuyện về đời hoớt động của Hồ chủ
tịch, bút hiệu Trần Dân Tiên, và Vừa đi vừa kểchuyện, bút hiệu T. Lan.
Các
danh nhân trên thế giới viết hồi ký kể lại quá trình hoớt động của mình
là chuyện bình thường. Trong hồi ký của họ, đôi khi họ cũng ca ngợi
chính bản thân họ, nhưng vấn đề là họ tự đề tên thật và chịu trách
nhiệm về những điều họ viết.
Ngược lại, Hồ Chí Minh giấu mình
qua những tên khác để tự ca tụng mình. Dưới tên Trần Dân Tiên, ông Hồ
đã mở đầu sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch như
sau: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu
sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay,
chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ tịch Hồ Chí
Minh không muốn nhắc lới thân thế của mình..." Sau đó, ông Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh tự đề cao mình: "...Một
người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và
đương lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi
[?] nghe bình sinh của người được?..." (23) Trước phần kể chuyện của Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Sự Thật đã viết lời dẫn nhập như sau: "...Trải
qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thưựng và
phong phú, Hồ Chủ Tịch đã nêu tấm gương đạo đức cách mạng vô cùng trong
sáng và đẹp đẽ, quyết tâm cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta và nhân dân thế giớị.." (24)
Nhà xuất bản
Sự Thật là cơ quan chuyên xuất bản sách vở kinh điển của Trung ương
đảng Cộng Sản, không thể không biết rõ lai lịch của quyển sách, lý lịch
của người viết. Nếu nhà xuất bản Sự Thật không biết sách của ai, hoặc
tác giả chỉ là một nhà báo tầm thường không tên tuổi như Trần Dân Tiên
hoặc T. Lan, thì chắc chắn không bao giờ sách được nhà xuất bản Sự Thật
in rạ Do đó, chắc chắn nhà xuất bản Sự Thật biết Trần Dân Tiên và T.
Lan là Hồ Chí Minh mới dám in hai quyển trên.
Chẳng những được
in trong nước, mà các sách nầy còn được nhà xuất bản Ngoại Văn dịch
thành nhiều thứ tiếng khác nhau để phát hành khắp các nước trên thế
giới trong suốt cuộc chiến tranh từ 1960 đến 1975. Đây không phải chỉ
là ý đồ cá nhân của Hồ Chí Minh mà còn là chủ tâm của toàn đảng Cộng
Sản Việt Nam nhắm suy tôn lãnh tụ, thần thánh hóa Hồ Chí Minh để đánh
lừa chẳng những đồng bào Việt Nam ở trong nước, mà còn cả toàn thể dư
luận thế giới trong thời gian chiến tranh trước đây.
Trở lại
chuyện vợ con của ông Hồ, ông ta cũng chỉ là một con người bình thường
như mọi người, có vợ có con, nhưng lúc trẻ tham vọng trở thành lãnh tụ
chính trị đã thúc đẩy ông chối bỏ trách nhiệm làm chồng, làm cha, và
nhất là giấu kỹ tất ca? những quan hệ tình cảm cá nhân, nhắm tự tớo cho
mình hình ảnh của một lãnh tụ chính trị độc thân, trong sạch, hy sinh
cá nhân để suốt đời tận tụy lo toan việc nước, nhắm lôi cuốn quần chúng
đi theo đường lối cộng sản của ông ta.
Huyền thoại nầy rất cần
thiết để xây dựng chế độ độc tài, nên ông Hồ và các đảng viên thân tín
của ông càng ra sức gia công phát huy rộng rãi huyền thoại nầy cho
những toan tính của đảng Cộng Sản. Nhưng một khi nhà lãnh tụ vong thân
trong huyền thoại thì họ không còn được cuộc sống bình thường của con
người, mà nhất nhất đều phải theo sự điều hành trong guồng máy của chủ
nghĩa độc tàị. Do đó, khi trở thành lãnh tụ nhà nước ở Hà Nội, ông Hồ
muốn quyết định bất cứ việc gì, dù có tính cách riêng tư, cũng đều có ý
kiến của bộ chính trị đảng Cộng Sản, tức là nhóm lãnh đớo chóp bu của
đảng Cộng Sản Hà Nội lúc bấy giờ. Vì thế mới có chuyện đảng Cộng Sản đi
tìm phụ nữ cho Hồ Chí Minh thỏa mãn nhục dục, nhưng một khi các cô gái
đòi chính thức hóa bằng hôn lễ công khai, thì lại thoái thác rằng "bác"
không lấy vợ để lợi cho uy tín chính trị hơn.
Trong chế độ cộng
sản hiện nay ở Việt Nam, không phải chỉ có một trường hợp điển hình là
Hồ Chí Minh, mà có thể còn nhiều khuôn mặt khác nữa... Hiện tượng nầy
cũng không phải chỉ riêng ở Việt Nam mà là một hiện tượng chung của thế
giới cộng sản. Lý do chính là trong thế giới cộng sản không có cơ chế
dân chủ, không có tự do ngôn luận, không có tự do báo chí từ dó không
có sự chế tài đối với các lãnh tụ và các lãnh tụ vượt ra ngoài vòng dư
luận, muốn làm gì thì làm, không sơ. sự phê bình của dân chúng. Điều
nầy đưa đến nhiều hậu quả tai hại rộng lớn và lâu dài cho đất nước,
khiến đất nước càng ngày càng đi xuống thê thảm như tình trạng Việt Nam
ngày nay.
CHÚ THÍCH : 1. Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l''Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 63, 145. Báo
Tuổi Trẻ của Thành đoàn Thanh niên CSHCM thành phố Hồ Chí Minh (tức Sài
Gòn cũ) đã trích đăng lới tài liệu của Daniel Hémery trong số báo ngày
18-5-1991. Tổng biên tập báo nầy lúc đó là bà Kim Hạnh liền bị kiểm
điểm và bị mất chức.
2. Thành Tín, Về ba ông thánh, 1995,
California, tr. 150. Lược dịch và giới thiệu kết quả nghiên cứu của nhà
nữ sử học Hoa Kỳ Sophia Quinn Judgẹ Theo Thành Tín, bà Sophia Quinn
Judge là nhà sử học Hoa Kỳ, đã nghiê n cứu hồ sơ mật của Quốc tế cộng
sản sau khi Liên Xô sụp đổ, tìm ra một số tài liệu mới về Hồ Chí Minh,
và đã công bố kết quả nghiên cứu tới đới học Yale (Hoa Kỳ), và trong
một cuộc họp về tài liệu lịch sử ở Aix-en-Provence (Pháp) năm 1995.
3.
Thành Tín, sđd. tr. 151. Thành Tín dựa vào danh sách trong một lá thư
từ văn phòng cộng sản ở Hồng Kông gởi về Moscou ghi danh sáu đới biểu
phái đoàn Đông Dương về dự đới hội của cộng sản quốc tế năm 1935. Kao
Bang là Hoàng Văn Nọn tức Tú Huy hay Văn Tân.
4. Chính ựớo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 380. Thành Tín, sđd. tr. 151.
5. Thành Tín, sđd. tr. 136.
6. Thành Tín, sđd. tr. 151.
7. Thành Tín, sđd. tr. 152.
8. Chính đạo, sđd. tr. 208.
9.
Chính Đạo, sđd. tr. 161. Theo Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng CSVN,Thành
mang tên Hồ Chí Minh từ ngày 13-8-1942, nhưng theo một tác giả Trung
Hoa, ông King C. Chen, trong sách Vietnam and China, 1938-1954,
Princeton Univ Press, Princeton, 1969, tt. 56-57, thì Hồ Chí Minh bị
bắt năm 1942 tới Liễu Châu vì một giấy thông hành đã quá hạzđược cấp
năm 1940 mang tên Hồ Chí Minh.
10. Stanley Karnow, Vietnam a
History, The Viking Press, New York 1983, tr. 126. Chính đạo, Hồ Chí
Minh, con người & huyền thoạf tập 2: 1925-1945, tr. 258.
11. Chính đạo, sđd. tr. 283.
12.
Chính Đạo, sđd. tr. 301. Bảy uy viên chính thức là: Trương Bội Công,
Trương Trung Phụng (QựD), Trần Báo (QựD), Bồ Xuân Luật (Phục Quốc),
Nghiêm Kế Tổ (QựD), Lê Tùng Sơn (Giải Phóng, Côn Minh), và Trần ựình
Xuyên. Ba uỷ viên kiểm soát là: Nguyễn Hải Thần (ựồng Minh Hội), Vũ
Hồng Khanh (QựD), và Nông Kính Du (Phục Quốc). Trương Bội Công tên thật
là Trương Bội Hoàng, được giới hoớt động cách mạng ở Trung Hoa lúc đó
kính trọng nên gọi là "Công." Trương Bội Hoàng là phụ thân của Trương
Tử Anh, lãnh tụ của Đại Việt Cách Mạng Đảng. 13. Các tác giả ghi khác
nhau ngày Hồ về tới Pắc Bó. Tài liệu đảng CSVN nói tháng 7-1944, tài
liệu của King C. Chen viết là 25-9- 1944, tài liệu tình báo Mỹ ghi
tháng 11-1944.
14. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, tr. 75.
15.
Đầu năm 1945, giới chỉ huy quân sự Hoa Kỳ tới Trung Hoa không tin tưởng
ở Hồ dầu Việt Minh đã cứu 1 phi công Mỹ bị bắn hạ ở Cao Bằng cuối năm
1944 và Hồ đưa sang Quảng Tây trả lại cho giới chức Mỹ, đồng thời Hồ đã
dịch truyền đơn cho Mỹ. Khi Nhật đảo chánh ở Đông Dương (9-3-1945), các
giới chức Mỹ đổi thái độ, đồng ý hợp tác với Hồ để Hồ cung cấp tin tức
hoạt động của Nhật ở Đông Dương, và bù lại Mỹ cung cấp thuốc men, vũ
khí cho người của Hồ. Ngày 17-3-1945, Hồ gặp Charles Fenn, một sĩ quan
của Sở tình báo chiến lược (Office of Strategic Services: OSS), Fenn
đặt bí danh cho Hồ là Lucius. Trong tiếng Latin, Lucius là tên đàn ông,
Lucia là tên phụ nữ cả hai tên nầy do chữ "Lux" mà ra "Lux" nghĩa là
"ánh sáng." (Có thể Fenn đặt tên nầy cho họ Hồ vì họ Hồ tên Minh, có
nghĩa là sáng.)
16. Tới Việt Nam, từ nửa thế kỷ nay, xuất hiện
cụm từ "gia đình cách mạng" tức là những gia đình có công đóng góp với
hoớt động của cộng sản về nhân lực (có con vào đảng, đi bộ đội, che
giấu đảng viên, nuôi quân...) hoặc tài lực (tài sản, nhà cửa, thực phẩm, tiền bớc mua thuốc men, vũ khí...).
17.
Vũ Thư Hiên, ựêm giữa ban ngày (hồi kýàchính trị của một người không
làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 607. Về vụ bà
Xuân, xin xem Đêm giữa ban ngày tt. 605-609, và nguyệt san Thế Kỷ 21,
Garden Grove, số 96, tháng 4-1997, bài "Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời
của Hồ Chí Minh", của Nguyễn Minh Cần, tt. 33-40. Theo Vũ Thư Hiên, cô
Xuân họ Nông, nhưng theo Nguyễn Minh Cần, cô Xuân họ Nguyễn. Theo Thao
Thức,"báo chui" trong nước, số 3 tháng 6-1998, bà Xuân họ Nông. Báo
Thao Thức còn nhắc đến một phụ nữ Trung-Hoa có con với ông Hồ, nhưng
không cho biết danh tánh cụ thể để kiểm chứng. (Thao Thức, tháng
3-1998, rút từ Internet).
18. Nguyễn Minh Cần, báo đd. tt. 37-38.
19. Nguyễn Minh Cần, báo đd. tr. 38.
20. Thành Tín, sđd. tt. 149, 152.
21.
Theo hệ thống tổ chức của đảng Cộng Sản Việt Nam, ở mỗi tỉnh có một uỷ
ban đảng hay tỉnh uỷ. Tỉnh uỷ do một bí thư đứng đầu và một số tỉnh uỷ
viên tuỳ theo số lượng đảng viên trong tỉnh.
22. Nguyễn Minh Cần, báo đd. tt. 36-37.
23.
Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nxb.
Sự Thật, Hà Nội, in lần thứ hai, 1976, tt 7 và 9. Ngày nay, trong các
thư viện trong nước, khi tra cứu về tác giả Trần Dân Tiên hay T. Lan,
thư mục ghi rõ: "Xin xem chủ tịch Hồ Chí Minh."
14. Trần Dân Tiên, sđd. tr. 5.
(HẾT)
|