“2.
Áp dụng triệt để công ước quốc tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà
Việt Nam tham gia ký kết tại LHQ năm 1982, và tiêu chuẩn hóa pháp luật
Việt Nam theo các công ước quốc tế về nhân quyền, tự do, dân chủ của
LHQ;
“3.
Loại bỏ điều 4 trên Hiến Pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc và
kiến quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình tôn
giáo và chính trị;
“4.
Triệu tập hội nghị toàn dân bao gồm các cộng đồng tôn giáo và các đảng
phái dân tộc ra đời từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, khai mở cuộc hóa giải
các tranh chấp, hận thù nẩy sinh từ những ý thức hệ ngoại lai gây nên
tấn thảm kịch bản địa suốt sáu mươi năm chưa dứt, hầu đặt cơ sở cho
việc trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam
quyền phân lập và đa đảng. Bởi vì ba triệu đảng viên Cộng Sản và nửa
triệu bộ đội hiện tại chưa đủ thế và lực bảo vệ tổ quốc trên mặt quốc
phòng, chưa đủ uy và dũng mở rộng mặt trận chính trị và ngoại giao quốc
tế, nên phải cần tới sự tham gia toàn diện, đồng đẳng và bình đẳng, của
85 triệu dân cùng khối lượng ba triệu Người Việt hải ngoại. Vì không có
sức mạnh nào bằng sức mạnh của toàn dân, lịch sử đã chứng minh điều đó.”
Từ
khi cho thành lập “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” thường bị nhiều người
gọi là Phật Giáo quốc doanh” năm 1981, nhà cầm quyền CSVN đã bắt lưu
đày, quản chế, bỏ tù liên tục HT Thích Huyền Quang cũng như HT Thích
Quảng Ðộ, hai vị cầm đầu lưỡng viện của GHPGVNTN từ đó đến nay.
HT
Thích Huyền Quang, viện trưởng Viện Tăng Thống GHPGVNTN viên tịch ngày
5/7/2008 tại tu viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Ðịnh. HT Quảng Ðộ được cử
lên làm “Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống” kiêm nhiệm chức viện trưởng
Viện Hóa Ðạo.
HT
Quảng Ðộ từ trước đến nay đã nhiều lần đưa ra các lời tuyên bố đòi hỏi
đảng Cộng Sản và nhà nước CSVN phải trả lại các quyền căn bản cho người
dân. Ðặc biệt, ngài đòi hỏi chế độ Hà Nội dẹp bỏ điều 4 Hiến Pháp (dành
độc quyền cai trị đất nước cho đảng CSVN).
Bởi vậy, ngài thường xuyên là mục tiêu để báo chí CSVN bôi bác và đả kích thậm tệ.
Trong
bản tuyên cáo nói trên, HT Quảng Ðộ kêu gọi mọi người Việt Nam và Phật
tử trên toàn thế giới “đem hết tâm lực tranh thủ Quyền Người, tuyên
dương Quyền Sống và thiết lập Quyền Dân, làm nền tảng kết liên dân tộc
hầu chen vai thích cánh cùng các quốc gia trên địa cầu bảo vệ an ninh
và hòa bình cho nhân loại.”
Dịp
này, ngài nhắc nhở mọi người là “Tổ quốc đang lâm nguy vì nạn xâm lấn
đất và biển của ngoại bang, mà hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
nỗi đau nhức nhối. Trong khi ấy chính quyền tại vị nhu nhược nếu không
nói đồng lõa. Nên GHPGVNTN kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước mau
chóng kết hợp thành một khối để bảo vệ non sông và nòi giống. Với trách
nhiệm công dân, và trong cương vị một tôn giáo từng đóng góp vào công
trình lập quốc suốt hai nghìn năm qua, GHPGVNTN sẵn sàng tham gia hậu
thuẫn mọi công trình bảo vệ chủ quyền dân tộc.”
Nhìn
vào chương trình “đổi mới kinh tế” mà chế độ Hà Nội thi hành từ hai
thập niên qua, ngài cho thấy “Cuộc đổi mới kinh tế của nhà cầm quyền
Cộng Sản 22 năm qua chỉ đem lại sự giàu có phiến diện cho các cán bộ
Cộng Sản cao và trung cấp, và một thành phần thiểu số thị dân. Nhưng
80% dân số nông dân và thợ thuyền vẫn sống trong cảnh nghèo thiếu, bị
áp bức và bóc lột. Bản án chế độ thực dân, còn gọi là bản yêu sách của
nhân dân Việt Nam, do giới sĩ phu yêu nước sống lưu vong tại Paris, là
các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái
Quốc... mang đến trao cho Hội Nghị Quốc tế Versailles ngày 18.6.1919,
thì nay chỉ cần thay chế độ Pháp thuộc thành chế độ XHCNVN, nguyên
trạng xã hội và sự bóc lột người dân trong bản án, cơ bản vẫn chưa có
gì thay đổi dù 89 năm đã trôi qua. Ðổi mới kinh tế suốt 22 năm ròng chỉ
mang lại và phát huy một nền văn hóa sợ hãi và bạo động, nhưng chẳng
thành công san phẳng hố giàu nghèo. Trái lại, chênh lệch giàu nghèo
ngày càng đào sâu thăm thẳm. Không chênh lệch giữa quốc dân, mà chênh
lệch giữa giới quan lại và quần chúng, gây ra cảnh ‘nước giàu dân
nghèo’ mâu thuẫn với các khẩu hiệu nhà nước đề cao.”
Ngài
cảnh cáo chế độ Hà Nội là “Nếu không dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng
cốt để giữ nước mà cứ nay chạy theo nước này mai chạy theo nước khác
cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả
sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ tay sai cho ngoại nhân mà
thôi.”