Kê Khai Tài Sản Cho Mọt Ăn !
Phạm Trần
Hoa Thịnh
Đốn.- Thông thường đã nói thì phải làm mà không làm được thì đừng nói, đằng này
nói nhiều mà làm chẳng bao nhiêu thì nói làm gì cho khổ lỗ tai người nghe ?
Đem chuyện này
vào áp dụng cho Công tác phòng, chống tham nhũng – quan liêu lãng phí ở Việt
nam thì có nói đến năm cùng, tháng tận cũng không hết. Vì vậy trong dân gian bây
giờ họ bảo nhau nhà nước nói chống tham nhũng dai như đỉa mà làm thì như cá rỉa
mồi.
Bùi Nguyễn, Cán
bộ Tuyên giáo của đảng CSVN viết rằng, sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành
công Hồ Chí Minh đã dậy : “ Cần
phải khẳng định và nhấn mạnh lại rằng tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù của
nhân dân, và vì vậy, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng. Bởi vì đây
là cuộc chiến chống lại cái xấu, cái ác, xây cái đẹp, cái thiện. Tham ô, lãng
phí, quan liêu là nọc xấu của chế độ cũ. Mặt khác, cán bộ, đảng viên ta, lúc đấu
tranh thì trung thành. Song đến khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu
ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành
người có tội với cách mạng. Chúng ta phải giáo dục, giúp đỡ, cứu vãn họ. Sự
nghiệp đổi mới là nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp. Vì vậy, phải tẩy cho sạch
những thói xấu của xã hội cũ.”
(Tạp chí Tuyến Giáo Điện tử, 18/8/2008
Vậy mà 63 năm
sau khi con cháu “Bác” ăn mừng độc lập 2-9 thì lời dậy của người lập ra đảng
cũng đã theo “Bác” đi vào cõi hư vô.
Bùi Nguyễn lưu
ý đảng : “
Trước hết, với
tinh thần của Cách mạng Tháng Tám, cả hệ thống chính trị, mà đứng đầu là Đảng
cầm quyền, phải có một quyết tâm chính trị cao độ và thật sự để kiên quyết “nhổ
đi nhổ lại cho sạch hết những cỏ rác bệnh quan liêu” như lời dạy của Lênin và Hồ
Chí Minh. Đảng phải quán triệt nhận thức trong toàn xã hội về cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu quan trọng như đánh giặc trên mặt trận.
Tất nhiên, đây là mặt trận tư tưởng, chính trị, là cuộc cách mạng nội bộ. Vì
vậy, phải có lãnh đạo, có tổ chức, có kế hoạch, có chuẩn bị. Với tinh thần Cách
mạng Tháng Tám, Đảng phải truyền quyết tâm chống giặc nội xâm cao hơn chống giặc
ngoại xâm, vì “giặc bên trong đáng sợ hơn”. Phải làm cho mỗi người dân nhận thức
sâu sắc rằng nỗi nhục nghèo hèn, lạc hậu, thiếu văn minh do những thói hư tật
xấu của cán bộ, đảng viên gây ra cũng đau không kém gì nỗi nhục mất nước, nếu
không muốn nói là đau hơn.
Chống giặc
bên trong thường phải áp dụng nhiều bộ “công cụ”. Chúng ta đã có Luật Phòng,
chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đây là những công
cụ quan trọng vào bậc nhất xét dưới góc độ quản lý nhà nước.”
Vậy sau 3 năm
thi hành Luật, đảng của Bùi Nguyễn đã làm được gì ?
Cán bộ này than
van : “ Nhưng rõ ràng, từ khi luật có hiệu lực (tháng 12-2005) đến nay, vấn
đề tham nhũng và lãng phí hầu như không giảm, ngược lại có chiều hướng gia tăng.
Như vậy, “vũ khí hiện đại” nhất chưa phát huy tác dụng, vì người ta vẫn có cảm
giác như chưa có các luật đó trên đời; luật chưa đi vào cuộc sống. Mặt khác,
việc thi hành luật chưa thật nghiêm và minh nên đang có dấu hiệu “nhờn” luật.
Chúng ta chưa làm đúng chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là “pháp luật phải thẳng tay
trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào và làm nghề nghiệp gì”,
và chỉ dẫn của Lênin: “Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò,
mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy,- đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản,
cho những người cách mạng”
Như vậy là
những kẻ tham nhũng trong hàng ngũ đảng CSVN đã bị danh vọng và tiền tài làm
tê liệt mọi giác quan trong cơ thể nên “lạnh cảm” cả với tư cách của một con
người nên Bùi Nguyễn mới phản bác : “ Giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức
là một cách làm cần được duy trì thường xuyên, và trên thực tế đã đạt được một
số kết quả. Tuy nhiên, những kẻ tham nhũng thì không còn “dây thần kinh xấu hổ”.
Vì vậy, giáo dục đạo đức phải kết hợp với sự nghiêm và minh của pháp luật….Kêu
gọi tính tự giác, tự phê bình, tự phát hiện những tiêu cực như tham ô, tham
nhũng, lãng phí của mỗi cán bộ, đảng viên, của tổ chức đảng cơ sở là một biện
pháp chúng ta vẫn làm, nhưng rõ ràng còn rất hình thức. Hầu như chưa có một vụ
tham nhũng, lãng phí nào được phát hiện từ chính tổ chức đảng cơ sở, tức là tự
phát hiện, tự chỉ trích. Trong khi đó, khoảng 80% vụ việc tiêu cực chủ yếu do
báo chí phát hiện.”
Như vậy thì
những Nghị quyết, Quyết định, Nghị định, Pháp lệnh, Kết luận, Thông báo, Thộng
tri v.v… của đảng, của Quốc hội và của Chính phủ đưa ra từ trước tới nay để làm
gì mà đảng mới phát hiện được 20 phần trăm các vụ tiêu cực trong cán bộ, đảng
viên ?
Nhưng trong 3
năm thi hành hai Luật “ Phòng, chống tham nhũng” và “Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí” mà chỉ làm được bằng ấy phần trăm thì cán bộ, đảng viên có coi lệnh
đảng “bằng vung” không ?
Nói qua thì
phải nói lại. Nếu cứ đổ lỗi cho kẻ thừa hành mà để cấp trên bình chân như
vại, tiếp tục vây bè, kết cánh ăn chia xây nhà, tậu xe thì kẻ thừa hành phải
buông tay đi kiếm ăn là chuyện bình thường, không thể trách họ được.
Hãy nghe Bùi
Nguyễn chứng minh : “ Như Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cán bộ kém lòng trách nhiệm
là một biểu hiện của tham ô gián tiếp và quan liêu đẻ ra tham ô, lãng phí. Ở đây
cần phải thật thà thừa nhận, chúng ta chưa thật thấu triệt quan điểm Hồ Chí Minh
về quan liêu, về thiếu tinh thần trách nhiệm và những tác hại của nó. Thiếu tinh
thần trách nhiệm và quan liêu có mối quan hệ mật thiết với nhau, tuy hai mà một,
tuy một mà hai. Nó đều là kẻ thù của nhân dân, tội lỗi như mật thám, phản quốc,
nếu không phải là tệ hơn nữa.
Nhưng hiện
nay, chưa thấy ai bị kỷ luật vì lãng phí, quan liêu và thiếu tinh thần trách
nhiệm!?. Nhiều cán bộ sau những vụ việc có khuyết điểm lớn vẫn chỉ quy vào thiếu
tinh thần trách nhiệm. Mà ở Việt Nam hiện nay, bị quy “tội” thiếu tinh thần
trách nhiệm coi như chuyện bình thường, chưa có gì xảy ra.”
NGỒI LÊN ĐẦU
DÂN
Như thế thì làm
gì có chuyện đảng phải “hiếu với dân”, “đầy tớ của dân” hay phải là “trâu ngựa”
của dân như mong ước của Hồ Chí Minh thốt ra ngày 3-3-1951 tại buổi ra mắt của
Đảng Lao động Việt Nam ? (Mạch Quang Thắng, Tạp chí Tuyên Giáo, 28-8-08)
Việc đảng để
cho “Quốc nạn tham nhũng” tiếp tục hòanh hành, phá hoại đất nước, làm hại nhân
dân còn được Mạch Quang Thắng chứng minh: “Vị
trí và vai trò cầm quyền của Đảng đã chế định một thực tế là tuyệt đại đa số
những người có chức, có quyền là đảng viên cộng sản, do đó, dễ làm cho đảng
viên có chức, có quyền đó xa dân, hách dịch, cửa quyền đối với dân. Đồng thời,
trên thực tế khi vận hành cơ chế thực thi quyền lực của xã hội trong vai trò cầm
quyền, nhiều tổ chức Đảng và đảng viên lại không chú trọng bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của dân. Trên thực tế, vẫn xẩy ra không ít nạn cường hào mới, nạn
sách nhiễu, vòi vĩnh, đòi ăn của đút lót, đặc biệt là nạn tham nhũng ngày càng
tinh vi và nghiêm trọng hơn, chưa phòng và chống được một cách có hiệu quả.”
Hiện nay,
với tất cả sự tỉnh táo của một Đảng cầm quyền, chúng ta càng thấy rõ hơn một
điều rằng, nếu Đảng xa rời dân thì Đảng sẽ đứng trước nguy cơ thoái hoá, biến
chất, thậm chí dẫn đến tan rã. Khi đó, chúng ta biết rất rõ điều gì sẽ xẩy ra:
mọi thành quả cách mạng mà toàn Đảng toàn dân ta đã giành được qua bao nhiêu năm
tháng đầy cam go gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt sẽ bị đổ xuống sông, xuống
biển.”
Trước đe dọa
sống còn này Thắng thúc hối đảng : “
Phải tích cực hơn
nữa trong việc chống quan liêu. Hồ Chí Minh viết: “Những người phụ trách dân
vận cần phải có óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ
không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào
việc”. Bệnh quan liêu là bệnh thường hay mắc phải trong điều kiện Đảng cầm quyền
nếu cán bộ, đảng viên không chịu rèn luyện phong cách công tác cũng như nâng
cao tinh thần trách nhiệm. Chính là bệnh quan liêu cộng với bệnh tham ô, bệnh
lãng phí đã bị Hồ Chí Minh coi là "giặc nội xâm", "thứ giặc ở trong lòng", nó
"nguy hiểm hơn bọn Việt gian, mật thám". Quan liêu hiện nay không chỉ có ở cấp
cao mà nó xẩy ra ngay ở cấp cơ sở, cấp chi bộ.
Tôi muốn
nhấn mạnh việc phải chống quan liêu là bởi vì trong cuộc sống hiện nay, vẫn còn
có nhiều người khi ở vào địa vị lãnh đạo thì hành dân, ức hiếp dân, không tự đặt
mình vào vị trí đày tớ, trâu ngựa của dân. Những giá trị phản văn hoá như nhũng
nhiễu, tham lam trong cuộc sống hiện đại vẫn còn rất nhiều.”
Lời cảnh báo
của cán bộ Tuyên giáo, Tiến sỹ-Giáo sư Mạch Quang Thắng không làm cho ai ngạc
nhiên bởi vì quan liêu, tham nhũng và lãng phí của mồ hôi nước mắt của dân đã
nhiễm vào máu đảng nên những cán bộ, đảng viên do đảng “đẻ” ra phải mang theo
dòng máu này, không có cách nào khác.
Bởi vì bệnh nói
nhiều làm ít hay không làm gì cả đã thành một lối sống quen thuộc như cơ thể con
người cần phải ăn và uống thì mới sinh tồn. Cán bộ, đảng viên của nhà nước
CSVN cũng thế, nếu muốn không chết thì phải ăn mà cách ăn dễ nhất để no lâu là
Tham nhũng nên buộc lòng Lãnh đạo đảng phải nói dai và làm như cá rỉa mồi, dù
biết nói mãi cũng không ai thèm nghe.
KÊ KHAI TÀI SẢN
ĐỂ GIẤU
Thái độ này đã
được chứng minh trong vấn đề kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên theo Nghị
định 37 ngày 09-03-2007.
Cho đến nay
không ai biết có bao nhiêu cán bộ, đảng viên đã khai hay chưa khai và những
người khai có tài sản, tiền bạc nhiều hay ít và để ở đâu ? Bởi vì Điều 5 của
Nghị định 37 viết : “ Việc kê khai tài sản, thu nhập là để cơ quan, tổ chức,
đơn vị có thẩm quyền biết được tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai
nhằm minh bạch tài sản, thu nhập của người đó; phục vụ công tác quản lý cán bộ,
công chức, góp phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng.”
Việc này đã
được thực hiện trong Cuộc bầu cử Quốc hội khóa 12 ngày 20-05-2007 khi Mặt trận
Tổ quốc các địa phương nhận hồ sơ khai tài sản của các ứng cử viên, cũng do Mặt
trận này chọn cho dân bầu, nhưng thay vì công bố cho dân biết như đã niêm yết
tên người ứng cử họ lại bỏ vào tủ khóa lại !
Sở dĩ họ làm
như thế vì Điều 11 của Nghị định 37 nói về “ Quản lý, khai thác, sử dụng bản
kê khai tài sản, thu nhập” đã quy định : “Bản kê khai tài sản, thu nhập được
quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ cán bộ và chỉ được khai thác, sử dụng trong
các trường hợp sau:
a) Phục vụ
cho việc bầu cử, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ luật đối với
người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập;
b) Phục vụ
cho hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền trong việc thẩm tra,
xác minh, kết luận về hành vi tham nhũng;
c) Phục vụ
công tác tổ chức, cán bộ.
2. Khi người
kê khai được điều động, thuyên chuyển sang cơ quan, tổ chức khác thì bản kê khai
tài sản, thu nhập của người đó phải được chuyển giao cùng với hồ sơ cán bộ cho
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý.
3. Khi người
kê khai nghỉ hưu, thôi việc thì bản kê khai tài sản, thu nhập của người đó được
lưu giữ cùng với hồ sơ cán bộ.
Vậy khi nào thì
hồ sơ kê khai tài sản mới được công khai ?
Trả lời cho
thắc mắc này, khỏan 4 của Điều 11 viết mơ hồ : “ Bản kê khai tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức, viên chức là đảng viên được quản lý theo quy định
tại Nghị định này và các quy định của Đảng; trường hợp quy định của Đảng có yêu
cầu phải công khai bản kê khai tài sản, thu nhập thì phải thực hiện việc công
khai theo đúng các quy định đó.”
Quy định của
Nghị định 37 thì đã công khai trong Điều 5 nói trên, nhưng không ai biết “các
quy định của Đảng” nói gì và viết khi nào?
Nhưng ai trong
đảng và nhà nước CSVN phải kê khai tài sản ? Họ kê ra nhiều thành phần thuộc 11
loại :
1. Đại biểu
Quốc hội chuyên trách, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, người ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
2. Cán bộ,
công chức từ phó trưởng phòng của Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên và người
được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương phó trưởng phòng của Ủy ban nhân dân cấp
huyện trở lên trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
3. Sĩ quan
giữ cương vị chỉ huy từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó chỉ huy trưởng ban chỉ huy
quân sự cấp huyện trở lên trong Quân đội nhân dân; sĩ quan giữ cương vị chỉ huy
từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó trưởng công an phường, thị trấn, phó đội trưởng
trở lên trong Công an nhân dân.
4. Giám đốc,
phó giám đốc, viện trưởng, phó viện trưởng, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó
trưởng phòng, trưởng khoa, phó trưởng khoa, bác sĩ chính tại các bệnh viện, viện
nghiên cứu của Nhà nước.
5. Tổng biên
tập, phó tổng biên tập, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng
ban, phó trưởng ban báo, tạp chí có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước.
6. Hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng trường mầm non, tiểu học của Nhà nước
tại quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán
trưởng trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trường trung cấp chuyên
nghiệp, dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên của Nhà nước; hiệu trưởng, phó
hiệu trưởng, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng khoa, phó
trưởng khoa, giảng viên chính trường đại học, cao đẳng của Nhà nước.
7. Giám đốc,
phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng ban, phó
trưởng ban tại ban quản lý dự án đầu tư xây dựng có sử dụng ngân sách, tài sản
của Nhà nước; giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng ban quản lý dự án sử dụng
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
8. Tổng giám
đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị, phó
chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát,
phó trưởng ban kiểm soát, thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng, trưởng
phòng, phó trưởng phòng, trưởng ban, phó trưởng ban các phòng, ban nghiệp vụ
trong công ty nhà nước; người được Nhà nước cử giữ chức vụ kể trên trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.
9. Bí thư,
phó bí thư Đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ
tịch, uỷ viên Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; trưởng công an, chỉ huy
trưởng quân sự xã; cán bộ địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán của Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn.
10. Điều tra
viên, kiểm sát viên, thẩm phán, thư ký toà án, kiểm toán viên nhà nước, thanh
tra viên, chấp hành viên, công chứng viên nhà nước.
11. Bộ
trưởng Bộ Nội vụ, sau khi thống nhất với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Văn
phòng Chủ tịch nước, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Trưởng các ban của Trung
ương Đảng, người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội,
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh sách đối với người có nghĩa vụ phải kê
khai tài sản, thu nhập là: người làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của
Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, cơ quan của Đảng, tổ
chức chính trị - xã hội, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn
phòng Chủ tịch nước.
Nếu chỉ đọc
trên giấy thì không thiếu thành phần nào trong đảng và trong xã hội không phải
khai tài sản. Trong số này có cả Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch Nước và Thủ tướng
Chính phủ vì những đảng viên lãnh đạo chúp bu cũng là các ứng cử viên Quốc
hội và đắc cử. Có điều hồ sơ kê khai tài sản của họ không được công khai nên
dân cũng mù tịt.
Nhưng nếu phải
khai thì khai cái gì ? Việc này đã được quy định trong Điều 8 của Nghị định 37,
đó là :
1. Các loại
nhà, công trình xây dựng sau:
a) Nhà, công
trình xây dựng khác đang thuê hoặc đang sử dụng thuộc sở hữu của Nhà nước;
b) Nhà, công
trình xây dựng khác thuộc sở hữu của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành
niên đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu;
c) Nhà, công
trình xây dựng khác thuộc sở hữu của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành
niên nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền
sở hữu đứng tên người khác.
2. Các quyền
sử dụng đất sau:
a) Quyền sử
dụng đất của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng;
b) Quyền sử
dụng đất của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhưng chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đứng tên người
khác.
3. Tài sản,
tài khoản ở nước ngoài của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên.
4. Thu nhập
từ mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân trở lên theo quy định của pháp luật.
5. Kim khí
quý, đá quý, tiền, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc, các công cụ chuyển
nhượng khác, mô tô, ô tô, tàu, thuyền và các loại tài sản khác mà giá trị của
mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên.
Đó là những tài
sản và của cải đếm được và nhìn thấy. Không thấy đảng nói gì đến những tài sản
hay của cải của kẻ phải khai nhưng để cho người khác đứng tên. Và đảng cũng
không dám điều tra tại sao nhiều cán bộ đảng viên chỉ có lương tháng vừa đủ
sống hay nếu dư thì cũng chỉ để dành được chút đỉnh mà họ có thể gửi con du học
nước ngòai tự túc hàng năm tốn ít nhất từ 20 ngàn Mỹ kim trở lên, hay chỉ được
học bổng một phần rất nhỏ của nhà nước hay của các trường học hoặc chương trình
tài trợ của nước ngoài ?
Thắc mắc của
đại đa số người dân nghèo cũng muốn biết : Tại sao con cái họ phải bỏ học đi lao
động giúp gia đình có miếng ăn hay dù không có việc làm cũng phải bỏ học vì gia
đình không có tiền đóng học phí và các khỏan phí “tự chế” của nhà trường, trong
khi cán bộ đảng viên có chức có quyền lấy tiền đâu để gửi hơn 100 ngàn con cái
họ di du học nước ngoài ? Và như vậy có công bằng không ?
TẠi SAO SỢ CÔNG
KHAI ?
Vì vậy mà Tiến
sỹ kinh tế Lê Đăng Doanh đã thắc mắc : “ Quan trọng là phải tạo tiền đề để
kê khai có căn cứ và có thể kiểm chứng. Việc này trước đây ta có làm, các vị
được đề cử vào các chức vụ này khác đều kê khai nhưng không được công bố. Hơn
nữa, cái kê khai đó cũng không có ai xác minh như thế nào cả …”
(Báo Điện tử VietNamNet, 31/10/2006)
Bà Lưu Thị Minh
Hải, cán bộ Học viện Chính trị Quân sự cũng nói : “Tôi nghĩ là khó mà bắt
được cán bộ có chức quyền kê khai đúng tài sản họ có. Vì ai cũng biết là tiền
bạc họ có gắn liền với chức quyền, nếu vì khai hết của cải mà mất chức thì làm
gì còn tiền nữa. Một điều nữa là người có chức quyền xây nhà hàng tỷ đồng, trong
khi lương cao nhất của những công chức làm ở những ngành nghề “màu mỡ” nhất như
hàng không, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông... cũng chỉ 5-7 triệu. Vậy thì tiền
ấy ở đâu ra? Để né tránh pháp luật, tôi nghĩ là họ thừa thông minh để nhờ con
cái, họ hàng... đứng tên tài sản, tài khoản ngân hàng. Tóm lại, tôi thấy chính
sách của chúng ta chưa đủ “mạnh” để thực hiện tốt việc minh bạch thu nhập
của cán bộ đâu.” (Báo VietNamNet, 17/10/2006)
Báo này còn
trích lời Ông Nguyễn Văn Mỹ, giám đốc Công ty Du lịch Dã ngoại Lửa Việt- TP Hồ
Chí Minh phát biều ngạc nhiên : “ Tôi nghĩ điều quan trọng trong nghị định
công khai tài sản của các quan chức là chúng ta có quyết tâm và có chịu làm đến
cùng hay không. Nếu không có quyết tâm thì mười ban chống tham nhũng cũng chẳng
có ý nghĩa gì. Liệu chính phủ có đủ sức đi ngược lại cả một dòng chảy của xã
hội, nơi tham nhũng đã ăn sâu vào từng hơi thở của cuộc sống hay không?
Tôi nói đơn
giản thế này, với đồng lương cán bộ nhà nước, dù là cán bộ cấp cao thì thử hỏi
liệu các vị quan chức có thể sắm nhà lầu, biệt thự, có thể gửi con đi học nước
ngoài được hay không? Hai vợ chồng chúng tôi đều là giám đốc doanh nghiệp, vậy
mà chật vật lắm mới có thể lo nổi cho con đi học ở Singapore với học bổng bán
phần. Vì vậy, tôi không hiểu sao các quan chức lại có thể dễ dàng gửi con cái họ
đi Mỹ, Úc, Anh như vậy.”
Lê Kiên Thành,
con trai đầu lòng của Lê Duẩn, Cựu Tổng Bí thư đảng cũng nghi ngờ việc làm của
đảng : “ Ở Việt Nam, đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người không riêng
rẽ mà có tính "tập thể" gia đình, cụ thể hơn là việc sở hữu tài sản có tính độc
lập rất thấp. Ví dụ, ở nước ngoài, tài sản của bộ mẹ là của bố mẹ, con cái là
của con cái. Nhưng ở nước ta, bố mẹ có thể đứng tên tài sản của con, thậm chí cả
anh em họ hàng cũng có thể làm việc này. Chúng ta có câu “Một người làm quan, cả
họ được nhờ“.
Ở nước
ngoài, người ta không làm như vậy, vì "gửi" tài sản khó mà đòi lại được. Còn ở
Việt Nam, đôi khi những ràng buộc của gia tộc, làng xã đôi khi còn cao hơn
những quy định có tính pháp lý. Trên thực thế, người ta có thể tin tưởng được
những người họ hàng xa lắc xa lơ ở đâu đó để nhờ đứng tên những tài sản khổng lồ
và không bị lấy mất...
Chính vì
thế, khó mà đưa ra được quy định giới hạn kê khai tài sản của người thân đến mức
nào.”
Theo tôi,
chúng ta đừng đặt vấn đề là cứ kê khai tài sản ra là chống được tham nhũng. Nếu
đặt vấn đề như thế thì sẽ cảm thấy bế tắc, mà chúng ta phải làm những việc khác
nữa. Tôi nghĩ điều quan trọng hơn là phải đẩy mạnh toàn bộ nền dân chủ, để cho
sự kiểm soát không phải từ cơ quan chức năng mà từ rất nhiều phía khác nhau của
cả xã hội.”
Cả xã hội
phải ý thức được rằng mất mát do tham nhũng là của chính họ chứ không phải là
của một Nhà nước chung chung nào. Khi đó, chúng ta sẽ đi đến việc chống tham
nhũng hiệu quả hơn. Ví dụ như câu chuyện vừa rồi ở Đồ Sơn chẳng hạn, quần chúng
đã làm được những chuyện lớn lao là đưa ra ánh sáng toàn bộ một đường dây tham
nhũng đất đai... Tôi nghĩ quan trọng là "anh" có muốn khơi dậy nền dân chủ trong
quần chúng hay không.”
(Báo VietNamNet, 17/10/2006)
Nhưng chính
vì đảng sợ phải thực hiện “nền dân chủ” để thực thi quyền của người dân được
biết và được thông tin như ghi trong Luật Báo chí nên chuyện kê khai tài sản
của cán bộ, đảng viên mới giấu kín để thành trò hề như hiện nay. -/-
Phạm Trần
(09/08)
|