1. Từ những quyết định mang tính phù hợp
Tại
một số trường ĐH trên địa bàn TP HCM, nổi lên trào lưu làm giảm nhẹ dần
những nguyên tắc sư phạm đã có từ lâu đời ở mọi quốc gia. Cụ thể là yêu
cầu thi giữa kỳ bị bỏ hẳn hoặc buông lỏng, tùy giảng viên tự tổ chức;
và việc lập hội đồng bảo vệ khóa luận tốt nghiệp cũng được làm đơn giản
hóa, bằng cách chỉ giao cho hai giảng viên chấm khóa luận. Những sửa
đổi “nhỏ” này ít được ai quan tâm. Vấn đề không phải là không ai nhận
thức được việc làm như vậy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới kỷ luật học
tập và chất lượng đào tạo. Nhưng với cách tổ chức giảng dạy hiện nay,
dường như đó là một thực tế khó tránh khỏi.
Một
điều ai cũng biết là số lượng sinh viên ở một số trường hiện nay quá
đông, có lúc tới 500 sinh viên trên đầu một giảng viên. Và việc phải
dạy nhiều giờ để kiếm thu nhập bây giờ đã trở thành một “chuẩn mực”
trong giáo dục đại học. Nhiều giảng viên phải dạy tới 30 giờ một tuần,
khiến cho họ luôn ở trong tình trạng bị quá tải. Hiếm có giảng viên nào
còn đủ sức lực và tâm huyết để dẫn dắt, kích thích óc sáng tạo của học
sinh. Giờ học trở nên một sự lặp lại nhàm chán, thiếu hơi thở của thực
tiễn. Khi đó, việc ra bài tập và làm bài kiểm tra, trở nên ít có ý
nghĩa bởi chính tính giáo điều, khô khan của nội dung dạy. Khi mà số
lượng bài tập và bài thi phải chấm lên tới con số hàng trăm, thậm chí
hàng nghìn, thì người có trách nhiệm nhất cũng phải bó tay.
Trước
thực trạng đó, nhiều giảng viên chỉ giao lấy lệ một hoặc hai bài tập
trong cả một khóa học. Đề bài tập, bài kiểm tra dường như không thay
đổi qua nhiều năm. Về phía mình, sinh viên chỉ việc mua đáp án bài tập
và bài thi với giá 5 ngàn đồng, thay vì bỏ công ra tu luyện. Và cứ theo
tập tục đó, đến khi làm khóa luận tốt nghiệp, nhiều sinh viên chỉ việc
chọn một trong những đề tài có sẵn, với nội dung rất ít thay đổi qua
các năm, ngoại trừ tiêu đề, một vài mô tả dữ liệu, và bảng biểu.
Với
cách dạy và học mang tính dập khuôn như vậy, thì việc rèn luyện kỹ năng
tư duy và óc sáng tạo không còn là trọng tâm ở nhiều trường Đại học
nữa. Việc bỏ thi giữa kỳ, hay bỏ tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nhiệp, mà
đã quá lâu chỉ còn mang tính hình thức, trở thành một thực tế hợp lý.
Chỉ có điều, chất lượng “đào tạo” mặc sức bị buông trôi. Nhưng liệu
chất lượng đã rớt tới mức độ nào?
Để
phân tích, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc xem xét sự lựa chọn trường
của những thí sinh thi đại học, nhằm tăng cao nhất kỳ vọng trúng tuyển,
và khả năng kiếm được việc làm sau khi ra trường.
2. Sự lựa chọn nghịch
Theo
thống kê về đợt tuyển sinh mới đây 2008, ĐH Ngoại thương và ĐH Bách
khoa, niềm kiêu hãnh của biết bao thế hệ sinh viên, không còn là sự lựa
chọn của nhiều thí sinh có tiềm năng nữa. Điều này thật trớ trêu, khi
Việt nam vừa ra nhập WTO, và đang thiếu trầm trọng nguồng nhân lực có
kỹ năng.
Số
lượng thí sinh chọn vào hai trường top này giảm mạnh so với năm trước.
Tình hình diễn ra tương tự ở các trường ĐH Y- Dược và ĐH Kinh tế TP
HCM. Trong khi đó, tại những trường nhỏ hoặc khá non trẻ, như ĐH Ngân
hàng, ĐH mở, Khoa Kinh Tế ĐHQG, hay trường CĐ Kinh tế công nghệ, tình
hình hoàn toàn ngược lại. Số thí sinh đăng ký thi vào các trường này
tăng gấp 2 tới 3 lần so với năm ngoái. (Theo Vietnamnet). Liệu đây có
phải là một nghịch lý?
Đối
với nhiều học sinh có tư chất, việc được vào học tại các trường có tên
tuổi dĩ nhiên là một điều đáng mong ước. Nhưng họ phải đối mặt với một
tỷ lệ chọi cao. Vì vậy, rủi ro bị đẩy xuống học các ngành không theo
đúng nguyện vọng cũng tăng lên. Do đó, khi áp lực của cuộc đua càng
lớn, thì càng có một tỷ lệ cao hơn thí sinh có tiềm năng chọn vào những
trường có đẳng cấp thấp hơn; nhưng chắc chắn hơn trong việc trúng tuyển
vào những ngành mà mình mong muốn.
Lý
giải trên phù hợp với quan điểm của nhiều người. Nhưng chưa đủ. Việc
lựa chọn nghịch nêu trên còn chịu chi phối bởi một xu thế khác nữa. Đó
là ngay ở những trường được tiếng là tốt, thì việc giảng dạy cũng đang
ngày càng trở nên giáo điều. Điều đó bao hàm rằng, thi vào học ở những
trường lớn vất vả hơn, nhưng không có nghĩa là triển vọng về việc làm
sẽ tốt hơn hẳn, nếu cũng sinh viên ấy, xin vào học những trường ít đòi
hỏi hơn, nhưng thuộc lĩnh vực đang thịnh.
Intel
Vietnam cung cấp một ví dụ. Theo kế hoạch, từ nay tới 2010, Intel sẽ
phải tuyển vào khoảng 3000 kỹ sư điện tử và tin học. Nhưng cho đến giờ
họ mới chỉ tuyển được có 40 người. Điều đáng nói là, ngay sau khi bị
loại khỏi vòng đánh giá trắc nghiệm, thầy cô và chính những sinh viên
tham dự tuyển dụng đều khẳng định rằng, chuyên môn nghiệp vụ đó đã được
học rồi. Nếu quả thực như vậy, thì một câu hỏi cần đặt ra về việc rèn
luyện kỹ năng chuyên sâu, và khả năng phân tích tình huống không có sẵn
trong sách vở tại các trường đào tạo về tin học.
Dù
sao đi nữa, những kết quả tuyển dụng tồi như vậy cũng đã gióng hồi
chuông báo động về tính giáo điều, kém hiệu quả của hệ thống giáo dục
chính quy hiện nay. Và yêu cầu về tính linh hoạt trong việc tự trang bị
kiến thức, nhằm đáp ứng được những thách thức nghề nghiệp, ngày càng
trở nên bức bách.
Trong
bối cảnh đó, việc chọn những trường ít cạnh tranh hơn sẽ cho phép sinh
viên đối phó dễ hơn với những môn học bắt buộc, nhưng không mấy hữu
dụng. Và họ có thể giành nhiều thời gian và nỗ lực cho việc tự trau dồi
kiến thức cần thiết ở các trung tâm, hoặc qua web. Bằng cách đó, họ có
thể phản ứng linh hoạt với yêu cầu của nhà tuyển dụng. Không ít sinh
viên mới tốt nghiệp ra từ các trường hạng trung bình, nhưng nắm vững
một số kỹ năng không quá đòi hỏi, với một khả năng ngoại ngữ tốt, đã
kiếm được việc làm với tiền lương cao tại những ngành công nghiệp mới
mở sau WTO.
Những
phân tích trên đây gợi ý rằng, khi hướng nghiệp, thí sinh có hoài bão
phải tính tới hai loại rủi ro. Thứ nhất là phải học khác ngành mình
mong muốn, khi tỷ lệ chọi cao. Và thứ hai là không nhận được việc làm
mình mong muốn, khi bằng cấp trường lớn không có ý nghĩa vượt trội. Khi
đó, việc chọn ngành có thể là quan trọng hơn so với việc chọn trường.
Điều đó lý giải cho sự lựa chọn nghịch vừa nêu trên. Việc cố thi vào để
lấy bằng ở những trường hàng đầu không còn đủ hấp dẫn với rất nhiều thí
sinh có tư chất nữa. Mặc dù không ai chối từ rằng, người có bằng cấp
như vậy là có tư chất.
Điều
đáng nói là nếu hai loại rủi ro trên càng cao, thì càng có một số lượng
lớn hơn thí sinh có tiềm năng chọn thi vào những trường hạng hai. Các
thí sinh trung bình và kém dĩ nhiên sẽ không chọn các trường hạng nhất.
Vì vậy, nếu để cho chất lượng đào tạo tại các trường top bị xuống cấp,
hoặc nếu tạo kẽ hở cho việc chạy tiền để vào trường tốt, khi số lượng
tuyển sinh bị hạn chế, thì điều đó sẽ làm dấy lên cuộc đua hướng vào
những trường thuộc hạng xoàng (racing to the bottom).
3. Nhìn sâu hơn vào gốc vấn đề
Một
câu hỏi được đặt ra là tại sao các trường hàng đầu lại bị xuống cấp?
Tại sao các trường đó không phản ứng tích cực với những cơ hội to lớn
đang mở ra trên thị trường lao động? Sao Intel cần tới 3000 kỹ sư và kỹ
thuật viên, mà Việt nam chỉ đáp ứng được có 40? Dù rằng, các kỹ năng mà
Intel cần không phải là quá đòi hỏi. Thêm vào đó, rất nhiều công ty
nước ngoài khác cũng đang gặp phải khó khăn như Intel. Họ đang buộc
phải đi thuê kỹ sư và kỹ thuật viên ở các nước lân bang, như Thái lan,
Malaysia, Trung quốc. Và trở ngại không tìm được kỹ sư, kỹ thuật viên
tại chỗ hiện đang làm sức hấp thụ vốn của nền kinh tế giảm xuống rất
thấp so với tiềm năng. Chỉ vào khoảng 25% trong tổng số 40 tỷ dollars
FDI, đã cam kết cho năm nay (theo VCCI).
Câu
trả lời đơn giản là, Việt nam hiện còn rất bị hạn chế so với các trường
trong khu vực trong việc đào tạo nguồn nhân lực, có đủ kỹ năng và ngoại
ngữ để làm việc tại các công ty nước ngoài.
Nhưng
nếu nhận định đó là đúng, thì tại sao Đại học Việt nam lại làm ngơ
trước triển vọng FDI sẽ còn tiếp tục đổ mạnh vào các lĩnh vực sản xuất,
lắp ráp hàng công nghệ. Và sự khan hiếm nguồn nhân lực tại chỗ sẽ còn
trầm trọng hơn nữa trong tương lai gần. Liệu Việt nam nên có một chính
sách đại học như thế nào để đáp ứng lại với cơ hội và thách thức đó?
Một
điều cần phải nhấn mạnh là, trong một nền kinh tế mở, khi cầu nội địa
về nguồn nhân lực có kỹ năng càng bức bách, thì càng thúc đẩy các tổ
chức giáo dục quốc tế đến lập các chi nhánh đào tạo tại chỗ. Nơi họ
chọn để lập chi nhánh sẽ chính là những cơ sở giáo dục hàng đầu của
Việt nam. Nếu nhìn như vậy, thì chỉ cần một sự định hướng đúng, là có
thể làm khởi đầu một quá trình hội nhập về giáo dục của Việt nam vào
mạng lưới tri thức khu vực. Theo đó, chất lượng đào tạo đội ngũ kỹ sư
và kỹ thuật viên sẽ được nâng dần lên, dẫn đến một sự thu hút mạnh hơn
nũa vốn đầu tư và công nghệ.
Rất
tiếc là cho đến nay, một cách nhìn như vậy chưa phải là quan điểm chủ
đạo trong chính sách đại học Việt nam. Hệ quả là từng cơ sở giáo dục
thấy bị quá sức, nếu phải tự mình tạo lập đội ngũ và tổ chức giảng dậy
theo hướng tiếp cận dần với giáo dục khu vực. (Cho dù, ai cũng nhận
thức được lợi ích của việc làm đó). Ngược lại, xu thế “xã hội hóa” giáo
dục, mà thực chất chỉ là việc bỏ dần các chuẩn mực đào tạo, mở rộng số
lượng đầu vào để tăng lợi nhuận, đang là xu thế chủ đạo. Nó chi phối
ngay cả những trường hàng đầu, mà yêu cầu rất cao về nỗ lực dạy và học
là điều kiện tiên quyết để tạo ra nguồn nhân lực có kỹ năng. Hệ quả là,
Đại học Việt nam có cơ bị đẩy lùi dần vào cái bẫy của chất lượng tồi.
4. Cuộc đua theo số lượng
Vậy
thì chất lượng Đại học Việt nam đã giảm sút tới mức độ nào? Để thấu
hiểu, hãy nhìn vào logic của cuộc chạy đua theo số lượng.
Như
đã nói, do chất lượng đào tạo ở các trường hàng đầu không đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn. Cho nên, ngày càng có tỷ lệ lớn hơn những người
có tư chất, sắp ra nhập thị trường lao động, tìm đến những trường hạng
hai. Ở đây, kỳ vọng trúng tuyển vào những ngành đang thịnh trên thị
trường là cao hơn. Và khi đã lọt được vào ngành mình muốn, chi phí cho
việc lấy tấm bằng là thấp hơn. Đồng thời, nỗ lực giành cho việc tự trau
dồi kiến thức sẽ nhiều hơn.
Nhưng
nếu đúng vậy, thì khi có nhu cầu tuyển dụng, doanh nghiệp trong nước
cũng quan tâm nhiều hơn tới sinh viên mới tốt nghiệp thuộc ngành mà họ
cần. Và ít quan tâm hơn tới trường nào đào tạo.
Dẫu
sao đi nữa, doanh nghiệp cũng biết rằng, có một tỷ lệ đáng kể những
người mới tốt nghiệp từ ngành họ cần, là có kỹ năng tồi. Tiền lương, do
vậy phải trả ở mức trung bình, có tính đến rủi ro là có thể vớ phải
“hàng tồi” (adverse selection). Mặc dầu vậy, mặt bằng lương có xu hướng
tăng dần lên ở những ngành, mà nhu cầu thị trường là nóng hơn.
Cấu
trúc tiền lương như vậy phản ánh niềm tin của doanh nghiệp rằng, ngành
càng thịnh, thì càng có một tỷ lệ cao hơn người có năng lực chọn vào
học, bất kể đào tạo là có vấn đề hay không. (Vì người tài có thể tự
trang bị nghiệp vụ). Nhưng với mặt bằng lương phân biệt theo ngành như
thế, thì thí sinh giỏi sẽ có lợi hơn, nếu chọn vào ngành hot hơn là vào
trường top, như đã nói. Sự lựa chọn của họ, do đó, khẳng định niềm tin
của doanh nghiệp là đúng.
Hệ
quả là cấu trúc tuyển chọn và tiền lương được phân tầng rõ rệt, trừ phi
trật tự về độ hot của các ngành bị đảo lộn. Cấu trúc đó là một thể chế
hợp lý, khi doanh nghiệp mất khả năng phân biệt chất lượng của người đi
xin việc qua tấm bằng. Nhưng về dài hạn, nó đặt ra khá nhiều vấn đề.
Một
mặt, từng doanh nghiệp thấy khó có thể giữ được những người trẻ, có
thực tài. Điều đó lý giải cho tỷ lệ “nhẩy việc” rất cao gần đây ở những
ngành nóng, như tài chính – ngân hàng. Mặt khác, nó có thể gây nên cuộc
đua tranh theo số lượng từ phía cung, giữa các trường đại học, theo
hướng làm giảm mạnh chất lượng đào tạo.
Vấn
đề là ở chỗ, với cấu trúc phân tầng theo ngành hot của thị trường lao
động hiện nay, các trường hạng hai không phải quá lo lắng bị đào thải
vì chất lượng tồi. Ngược hẳn lại, chỉ cần tạo một cải vỏ bọc tốt, “đánh
tín hiệu” rằng, lĩnh vực mình đào tạo là thuộc loại đang thịnh. Khi đó,
việc thu hút số lượng đầu vào và đảm bảo “cung tiêu” đầu ra sẽ được
thiết lập tự động, khá độc lập với chất lượng đào tạo.
Tình
hình này dẫn tới hai hiệu ứng: Thứ nhất, những trường càng thiếu thốn
nguồn lực giảng viên, càng ít tính chuyên nghiệp, thì càng hay lao vào
mở khóa đào tạo ở những ngành đang nóng nhất. Thứ hai, càng thiếu thốn
nguồn lực, thì họ càng muốn thay đổi bản chất và quy trình giảng dạy
theo hướng ít chuyên nghiệp hơn. Do vậy, thu lợi nhuận cao hơn. Hay ít
ra là làm giảm sức ép phải xây dựng lực lượng giảng viên có trình độ
cho phù hợp với yêu cầu đào tạo.
Chất
lượng dạy tồi, do vậy, hết sức dễ lây lan. Khi một trường đã bỏ đòi hỏi
về chuẩn mực chất lượng để tăng số lượng đào tạo vì lợi nhuận, thì các
tổ chức khác khó lòng mà ngồi yên. Logic ở đây là, nếu không tăng khóa
học, tăng số lượng đào tạo, thì nguồn đầu vào sẽ bị trường khác hút
mất. Và hiện tượng quá tải, dẫn đến phải giảm đòi hỏi về chất lượng,
trá hình hay công khai, cứ vậy mà mặc sức lan truyền. Ngay ở những
trường lâu năm, tình trạng quá tải dẫn đến việc giảng viên phải dậy
nhiều giờ. Khi mà khối lượng giảng dạy rất lớn, thì việc nâng bậc lương
theo chất lượng công việc bị xem nhẹ. Tiền lương thấp, và thường chỉ là
phép cộng đơn thuần của số giờ giảng, nhân với hệ số quy đổi, rất ít có
sự phân biệt về chất lượng, hay năng lực giảng dạy. Điều đó kích thích
giảng viên không có trình độ phải giảng dạy nhiều hơn, và tu luyện ít
hơn. Nhưng nó không kích thích người có trình độ vào làm công tác giảng
dạy. Do vậy, nạn thiếu trầm trọng giáo viên giỏi có xu hướng tồn tại
dai dẳng, đi kèm với sự gia tăng lợi nhuận siêu ngạch trong đào tạo.
Ai
cũng nhìn thấy cuộc đua tranh vì lợi nhuận này. Nhưng ít ai đánh giá
hết hậu quả của nó. Khi nền kinh tế đang nổi lên, từng thời kỳ sẽ xuất
hiện nhu cầu rất lớn về một ngành nào đó. Tuy nhiên, thị trường việc
làm càng nóng, thì càng kích thích việc đào tạo trở nên thiếu tính
chuyên nghiệp, nếu để lợi nhuận ngắn hạn chi phối mục đích đào tạo.
Điều này tạo ra một nghịch lý của sự phát triển: Tại những ngành cần
nhiều lao động có kỹ năng nhất, thì vốn người về chất càng ít được vun
đắp nhất. Không kể đến mất mát do những tài năng trẻ đang bị hút vào
những ngành nóng, nhưng lại bị mai một do cách giáo dục giáo điều, rập
khuôn. Sự thiếu ý thức về gây dựng vốn người đang thực sự đe dọa sự
phát triển dài hạn của nền kinh tế.
5. Một hướng đi đúng
Như
đã nói, khi cuộc đua gia tăng số lượng đầu vào đã được khởi động, thì
khó lòng ngăn cản những tổ chức giáo dục còn lại đứng ngoài cuộc. Vì
vậy, nhất thiết phải có một sự phối hợp mới lái được dòng chẩy đi dần
về các chuẩn mực chất lượng. Mặc dù Bộ giáo dục đã có những nỗ lực theo
hướng đó. Bao hàm việc chuẩn hóa số lượng Tiến sĩ, hay số học sinh trên
đầu giảng viên. Nhưng như đã gợi ý, những tiêu chí này hoặc là không ăn
nhập gì với thực tiễn, hoặc là bị phớt lờ. Thêm vào đó, việc Bộ giáo
dục cho phép mở ra vô số các trường “Đại học”, các chương trình liên
thông, tại chức, bằng hai, mà không giám sát được chất lượng, thì vô
hình chung, nó đã tiếp sức hơn nữa cho cuộc đua.
Những
điểm sáng cho Đại học Việt nam, do vậy, thường đến từ những thử nghiệm
mang tính cá nhân của từng trường, hơn là từ một chính sách chung của
Bộ giáo dục. Để hiểu kỹ hơn, hãy nhìn nhận lại cơ chế tuyển dụng trên
thị trường việc làm, và sự ứng đáp của các cơ sở đào tạo Đại học.
Theo
quan niệm chung, một trường Đại học tốt, bao giờ cũng phải là một
trường có tỷ lệ sinh viên ra trường nhận được việc làm cao, và theo
đúng ngành học, bậc học, với tiền lương cao.
Cho
tới giờ, hầu như chưa có một trường Đại học nào ở Việt nam đưa ra được
những con số thống kê đáng tin cậy về các chỉ tiêu đó. Do vậy, khi
tuyển dụng, cá nhân từng doanh nghiệp tin rằng, chất lượng đào tạo của
các trường, nhìn chung là thấp. Và họ phải dựa vào cấu trúc mặt bằng
lương trung bình, phân tầng theo độ nóng của ngành, để thu hút người
tài. Nhưng nếu vậy, thì các trường hạng hai sẽ thấy không có ích lợi gì
để cải thiện về chất lượng giáo dục. Vì dù với chất lượng gì, thì chúng
vẫn cứ bị đánh giá là hạng hai, một khi chưa đạt được đòi hỏi xã hội về
thế nào là trường tốt. Sẽ dễ dàng hơn cho họ, nếu lao vào những ngành
đang thịnh, và bỏ quên chất lượng đào tạo, như đã phân tích.
Nhưng
nếu vậy, thì khi một trường dám cam kết về tỷ lệ sinh viên ra trường có
việc làm cao, đúng ngành và bậc học, với tiền lương xứng đáng (chứ
không phải theo mặt bằng lương trung bình), thì xã hội sẽ nhìn nhận
rằng đó là một trường tốt. Nói khác đi, khi làm cam kết như vậy, cơ sở
đào tạo đã đánh tín hiệu (signaling) về chất lượng vượt trội của mình,
để phân biệt rõ ràng với các trường còn lại. Do đó, nó có thể thu hút
sinh viên giỏi vào trường, và tăng thu nhập từ đào tạo dựa trên xây
dựng danh tiếng về chất lượng, chứ không phải bằng sự đua tranh về số
lượng.
Đại
học FPT cung cấp một ví dụ. Dựa vào nguồn cung về vốn và cầu về tuyển
dụng sẵn có tại các doanh nghiệp trực thuộc, FPT đang dự định tạo ra
một trường Đại học, với những cam kết về chất lượng, và sự đảm bảo về
việc làm sau khi ra trường. Ý tưởng là dùng vốn doanh nghiệp để tài trợ
cho một chính sách lương kích thích, nhằm thu hút những giảng viên giỏi
về trường; và cấp học bổng cho những sinh viên có tiềm năng nhất; để
rồi khi tốt nghiệp, họ sẽ vào làm cho các doanh nghiệp trực thuộc, hoặc
các cơ sở tin học khác. Nhìn xa hơn, khi lớp người này đã thành đạt, họ
sẽ lại ở vào vị trí đóng góp vốn cho trường để thu hút người tài. Và
vòng quay: quỹ đào tạo từ doanh nghiệp vào trường; và tài năng từ
trường về doanh nghiệp, được khép kín.
Con
đường đi còn dài. Nhưng cơ hội luôn mở ra. Như đã gợi ý, dưới sức ép
của nhu cầu tuyển dụng, Intel Vietnam, và Đại học Portland, Hoa kỳ, đã
tìm đến Đại học FPT. Điều đó mở ra cho “người đi sau” khả năng hòa nhập
với mạng lưới giáo dục quốc tế. Nó cho phép chuẩn hóa chương trình và
chất lượng đào tạo, nhằm đáp ứng đòi hỏi của những nhà tuyển dụng khắt
khe nhất.
6. Suy nghĩ về các chính sách khuyến khích
Một
câu hỏi đặt ra là liệu Việt nam có thể nhân bản những thử nghiệm tích
cực hay không? Liệu có tìm được cho mình một cách phát triển Đại học,
gắn liền với sáng tạo khoa học và công nghệ trên tầm quốc gia không?
Câu
trả lời là không dễ. Việc nhân rộng các kinh nghiệm tích cực kiểu FPT
là hoàn toàn không đơn giản. Vấn đề không phải là thiếu vốn hay thiếu
cơ hội hợp tác, mà chủ yếu là do thiếu kỹ năng tổ chức.
Chẳng
hạn, một khi nhà nước cho ra một chính sách ưu tiên phát triển các
trường Đại học chất lượng. Khi đó, từng cơ sở giáo dục sẽ thấy có lợi
trong việc thổi phồng tầm quan trọng của mình. Khi chưa có một ủy ban
kiểm định có uy tín, từng trường sẽ rất dễ tự đánh bóng mình cho giống
loại có tiềm năng để đòi vốn tài trợ cao. Và nếu vốn cấp phát sau đó có
bị lãng phí, hay dùng sai mục đích, thì cũng ít ai sợ bị chịu trách
nhiệm. Mặt khác, nếu nhà nước muốn có một chính sách mở cửa để khuyến
khích đổi mới chất lượng giáo dục, thì có thể lại làm xuất hiện nhiều
cơ sở liên kết đào tạo, khoác mark ngoại để thu tiền học phí cao, rồi
biến mất khi chất lượng tồi bị phát giác. (Take-money- and- run
strategy).
Vậy
làm sao có thể sàng lọc và loại bỏ được những đối tác không có tiềm
năng? Làm sao để khuyến khích các cơ sở đào tạo nỗ lực trong việc sử
dụng vốn đầu tư cho giáo dục một cách có hiệu quả?
Đại
học quốc gia (ĐHQG - TP HCM), cung cấp một ví dụ đáng quan tâm. Gần
đây, tổ chức lớn này đã tìm cách kích thích việc đào tạo và ứng dụng ở
những ngành công nghệ mũi nhọn, như sản xuất con chip điện tử, robot
công nghiệp, cho đến công nghệ lai ghép gien. Những ngành này đòi hỏi
vốn đầu tư ban đầu rất lớn cho việc mua sắm thiết bị thí nghiệm. Nhưng
để tạo ra những sản phẩm có tính thương mại cao, quá trình thử nghiệm
thường là rất rủi ro. Dĩ nhiên là, chuyên gia càng giỏi, thì khả năng
thành công càng lớn. Nhưng chẳng có điều gì ngăn cản những người có ý
tưởng viển vông, thử cơ may trên lưng ĐHQG. Vì ngay cả dự án tốt nhất,
thì vẫn có khả năng nào đó là sẽ bị thất bại.
Để
kích thích nỗ lực sáng tạo, mà vẫn tránh được rủi ro bị chôn tiền của
và thiết bị vào những dự án thiếu suy xét, ĐHQG đưa ra chính sách hỗ
trợ đặc biệt, nếu dự án đã được thử nghiệm thành công. Dự án càng có
tiềm năng thương mại hoá cao, thì tiền hỗ trợ càng nhiều. Tuy nhiên,
nếu thử nghiệm bị thất bại, thì phí tổn cá nhân về thời gian và tiền
bạc cũng rất lớn, trong khi sẽ không có một đồng hỗ trợ thêm nào. Dự án
càng to, thì mất mát càng nhiều, kể cả uy tín cá nhân. Và nhà nghiên
cứu càng thấy khó có khả năng tham dự vào các đề án quan trọng khác
trong tương lai.
Chính
vì vậy, nếu nhà nghiên cứu không thật sự tự tin vào khả năng của mình,
thì họ thường chọn những thử nghiệm khiêm tốn. Nếu thành công, thì tiền
hỗ trợ nghiên cứu ít; nhưng nếu thất bại, thì tổn phí cá nhân cũng nhỏ,
ở mức họ có thể làm lại các thử nghiệm. Với những nhà nghiên cứu giỏi,
họ tin vào khả năng thành công cao, nếu bỏ nỗ lực cao vào nghiên cứu.
Do vậy, họ sẽ chọn những dự án thách thức nhất, với kỳ vọng nhận được
hỗ trợ vốn lớn khi thử nghiệm thành công; và lợi nhuận cao khi thương
mại hoá các phát minh, sáng chế do họ làm ra.
Nhìn
kỹ hơn, chính sách khuyến khích của ĐHQG giống như việc đưa ra một menu
các hợp đồng tự lựa chọn, mà khi hành động vì chính lợi ích của mình,
cá nhân hoặc cơ sở nghiên cứu sẽ chọn ra hợp đồng phù hợp nhất với khả
năng thành công của dự án. Do vậy, vốn đầu tư cao hơn có thể được “rót”
đúng hơn cho các dự án có triển vọng.
Thực
tiễn trên đây gợi ý rằng, khi không có khả năng đánh giá trực tiếp tiềm
năng của các cơ sở hay đối tác, thì cơ quan quản lý nên tạo ra một cơ
chế sàng lọc gián tiếp theo kiểu hợp đồng kích thích (incentive
contracts). Theo đó, khi tự chọn cho mình hợp đồng phù hợp nhất, từng
tổ chức giáo dục sẽ tự tiết lộ khả năng thực của mình. Nhờ đó, việc cấp
vốn cho phát triển có thể được thực hiện hiệu quả.
Liệu
chúng ta còn rút ra điều gì từ kinh nghiệm của ĐHQG? Như đã nói, “hợp
đồng tự lựa chọn” đưa ra cho các nhà nghiên cứu gồm hai thành phần
chính: Thứ nhất là đầu tư ban đầu (start up cost) về thiết bị cho việc
thử nghiệm sáng tạo ở những lĩnh vực có tiềm năng, và cần được ưu tiên.
Thứ hai là hỗ trợ vốn cho việc thương mại hoá các phát minh sáng chế đã
được thử nghiệm thành công. Cả hai yếu tố này, chi phí vốn ban đầu, và
hỗ trợ vốn đi sau, đều có xu hướng tăng lên theo quy mô của dự án. Do
vậy, menu “hợp đồng tự lựa chọn” sẽ phát huy hơn, nếu các điểm sau được
quan tâm:
Thứ
nhất, cần phải có dự báo đúng về các lĩnh vực mũi nhọn, và cần đánh giá
đúng về nguồn lực con người cho các mục tiêu phát triển đó. Nếu không,
sẽ có những dự án mà đầu tư ban đầu hết sức tốn kém, nhưng sau đó bị
chết yểu. Do đó, vấn đề làm dự báo một cách khoa học, và việc xây dựng
cơ sở dữ liệu, “who is who” là hết sức quan trọng.
Thứ
hai, cần đặc biệt chú trọng tới yếu tố con người. Sự thưởng, phạt phải
được đặt ra từ trước một cách rõ ràng. Nhất là khi người thực hiện nằm
quyền tự chủ cao, mà nỗ lực của họ có ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích tập
thể hoặc xã hội. Điều đó bao hàm việc cá nhân phải chịu trách nhiệm,
hoặc thậm chí bị bãi miễn, nếu để xẩy ra thất bại.
Thứ
ba, nếu được áp dụng một cách có hệ thống, và đúng phương pháp, hợp
đồng tự lựa chọn có thể kích thích sự phát triển những thử nghiệm tích
cực trong giáo dục. Từ đó sẽ làm xuất hiện những trường hàng đầu, thực
sự có chất lượng trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Nhất là ở những
lĩnh vực, mà thị trường là có triển vọng nhất. Khi đó, doanh nghiệp sẽ
tìm đến các trường đẳng cấp để tuyển dụng người làm với tiền lương cao.
Vì họ tin rằng, bằng cấp của các trường đó là có giá trị. Và sẽ trả
tiền lương thấp hơn, cho những người tốt nghiệp từ trường hạng hai.
Nhưng với cấu trúc trả lương như vậy, thì sẽ kích thích thí sinh giỏi
chọn vào trường hàng đầu. Và những thí sinh ít triển vọng sẽ tìm “tấm
thẻ vào đời” ở những trường hạng hai, ít đòi hỏi hơn. Trong hoàn cảnh
như vậy, hệ thống giáo dục sẽ thực sự tạo ra nguồn nhân lực có kỹ năng
cho sự phát triển kinh tế lâu bền.
Tài liệu tham khảo:
Akerlof,
1970: The Market for lemons: Quality Uncertainty and The Market
Mechanism. Quaterly Journal of Economics (89), 488-500.
Cho and Kreps, 1987: Signaling Games and Stable Equilibria. Quaterly Journal of Economics (102), 179-221.
Laffont
and Martimort, 2002: The Theory of Incentives. The Principal –Agent
Model. Chapter 2. The Rent Extraction-Efficiency Trade Off, 28-81;
Chapter 7. Mixed Models, 265 – 298. Princeton University Press.
McMillan, 1992: Games, Strategies, & Managers. Chapter 6. Using Information Strategically, 59 - 75. Oxford University Press.
Ms-Colell,
Winston, and Green, 1995: Microeconomic Theory. Chapter 13. Adverse
Selection, Signaling, and Screening, 436-460; Chapter 14. The Principal
– Agent Problem, 477 – 501. Oxford University Press.
Spence, 1973: Job Market Signaling. Quaterly Journal of Economics (87), 355-74.