3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để 'dân trí cao' không đồng nghĩa với 'ý thức dân chủ cao'.
Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe dọa.
Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi
–dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để
cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng. Cho dù người dân có bất mãn về chuyện
này chuyện kia thì vẫn làm cho họ nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân.
Trong trường hợp này thì việc thả Nguyễn Việt Tiến và việc bắt giam hai nhà báo là sai lầm. Lẽ ra chúng ta phải không tiếc một số ít các đồng chí tham lam quá mức, biến họ thành dê tế thần để giành lại niềm tin của nhân dân, hoặc ít nhất cũng làm họ giảm bất mãn, trong nỗ lực chống tham nhũng của chúng ta.
Một
người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm. Một người tuyệt vọng đôi
khi còn nguy hiểm hơn. Một người lạc quan, nhiều hy vọng, thì thường
cũng là một người dễ bảo, yêu chuộng sự ổn định và do đó không có ý định phản kháng.
Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc –
vốn đã rã rời về ý chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ýthức
hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng
có chỗ giải tỏa ẩn ức.
Tuyệt
đối không để sự bất mãn trong xã hội tích tụ lại vượt quá ngưỡng kiểm
soát của chúng ta. Kiên quyết tiêu diệt mọi mầm mống có khả năng dẫn
đến các loại hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi;
tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được đông đảo quầnchúng tham gia.
Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn,
từ Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư… và Mao Trạch Đông ở phương
Đông, cho đến Machiavelli – tác giả cuốn cẩm nang 'The Prince' nổi
tiếng ở phươngTây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin… hoặc Hugo
Chavez thời nay.Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềm linh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.
Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với HoaKỳ và phương Tây
– vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán
tấm áo 'dân chủ tự do' cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.
Tuy
nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để
có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn.
Một
nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một
kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa – nên trước sau
cũng sẽ để lộ sơ hở chết người. Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng;
biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một
cách vô cùng linh động… và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan
tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.
Bác
Hồ (hay có thể là bác Lê Nin) đã dạy: người cách mạng phải không ngừng
học hỏi, học từ nhân dân và học từ kẻ địch; phải không ngừng tiến hóa
về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu
khi cần thiết, thậm chí sẵn sàng đào thải cả những đồng chí quá tham
lam và ngu dốt có hại đến lợi ích chung của đảng. Đối với địch thủ thì
phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả… và đặc biệt
phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban
Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ.
Trong
lúc đối thủ tiêu hao lực lượng vì đánh vào những hình nộm rơm, hoặc
phung phí thời gian và sức lực vào những mục tiêu viễn vông,thì chúng
ta lạnh lùng quan sát, phân tích thấu đáo địch tình, ra đòn bất ngờ và
hợp lý để địch chết không kịp ngáp.
Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích
những hành động tự sát theo kiểu 'không thành công cũng thành nhân' –
tất nhiên là phế nhân. Chúng ta cũng phải biết lắng nghe những phê phán
của địch thủ mà thay đổi cho thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài
học quí giá mà chỉ có những người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra.
Nếu
kẻ địch lãng mạn viễn vông với những khẩu hiệu trừu tượng như'dân chủ',
'nhân quyền', 'tự do' … thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ
thể như 'ổn định xã hội', 'tăng trưởng kinh tế', 'xóa đói giảm nghèo'
Nếu
kẻ địch hô hào những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như 'đa
nguyên', 'đa đảng', 'pháp trị', 'khai phóng'… thì chúng ta phải tích
cực cổ vũ mô hình Nhân Trị của đấng Minh Quân – nhưng ở đây Minh Quân phải được hiểu là đảng cộng sản – cũng như đề cao những 'giá trị Á châu' một cách khéo léo.
Phát Huy dân chủ cơ sở - tập trung
Chúng ta cũng phải phát huy 'dân chủ cơ sở', 'dân chủ tập trung', 'dân chủ trong đảng'…
để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó cao xa vời vợi, mà
đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã và đang đồng hành
cùng với dân.
Phải cho dân thấy là nếu đảng có xe hơi thì dân cũng có hon đa – chứ không phải đi bộ; nếu đảng có đô la thì dân cũng có tiền in hình Bác đủ tiêu xài
– chứ không quá túng thiếu; nếu đảng có cao lương mỹ vị thì dân cũng có
gạo ăn – không chết đói mà còn dư thừa để đem xuất khẩu.
Đặc
biệt là phải tích cực tuyên truyền và giải thích để người dân hiểu được
ý nghĩa của 'dân chủ' theo cách có lợi cho chúng ta: 'dânchủ' nghĩa là
đảng luôn lắng nghe dân, phản ánh ý nguyện của dân (phần nào thôi)
qua những chính sách vĩ mô và vi mô, thỏa mãn niềm tự ái của dân vì
được dạy dỗ đảng, cũng như kích thích lòng tự hào dân tộc của dân để
hướng nó vào những kẻ thù mơ hồ dấu mặt ở bên ngoài.
Đối
thủ của chúng ta thường lãng mạn và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học
hỏi, hoặc nếu có học thì chỉ qua quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu
trừu tượng như 'nhân quyền', 'dân chủ'… rồi nhai đi nhai lại làm dân
chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ của chúng ta thường chỉ biết đến
một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn từ rất kêu, rất đẹp, nhưng
nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện.
Ngược
lại, chúng ta cần phải tích cực nghiên cứu sâu sắc những trước tác của
các học giả phương Tây về khoa học chính trị và kinh tế học. Chúng ta
phải nhận thức được đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học về mối
quan hệ biện chứng giữa 'thể chế chính trị' và 'phát triển kinh tế'.
Hai
phạm trù 'dân chủ' và 'phát triển' có quan hệ hết sức phức tạp, phi
tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân – quả. Nghiên cứu kỹ về vấn đề
này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải 'dân chủ hóa'.
Chúng
ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: phát triển kinh tế làm phát sinh
một số yếu tố hiểm nguy cho chế độ. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào khả năng 'tháo ngòi nổ' của chúng
ta, cũng như khả năng khai thác những yếu tố hiểm nguy này của đối lập
dân chủ.
Chẳng
hạn, học giả Daron Acemoglu của đại học MIT danh tiếng đã có nhiều phân
tích về 'nguồn gốc kinh tế của các chế độ độc tài và dânchủ'. Trong đó
ông đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế kèm theo việc phân bố của cải vật
chất một cách tương đối công bằng, đồng thời với việc nới lỏng một cách
chừng mực những tự do dân sự, thì bất mãn của xã hội sẽ không quá cao,
do đó hoàn toàn có thể duy trì chế độ độc tài mà vẫn thúc đẩy kinh tế
phát triển. Đó là trường hợp của Singapore,điển hình của một nhà nước
độc tài sáng suốt.
Một
ví dụ nữa là những nghiên cứu của Bruce Bueno de Mesquita, đã chỉ ra
cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu trong việc đàn áp cái gọi là
'coordination goods', tức là những yếu tố vốn không ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế, nhưng nếu được vận dụng bởi đối lập dân chủ thì lại trở thành những vũ khí đáng sợ. Đó là nghệ thuật 'đàn áp có chọn lọc' mà tôi đã có dịp phân tích.
Giới trẻ và sinh viên học sinh
Một kết quả bất ngờ mà theo tôi cũng là một kinh nghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ: việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại những kết quả ngoài mong ước.
Thành công của chúng ta không phải đã đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin.
Ngược lại, thành công của chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán
đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bịnh ồi nhét
đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có,trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết.
Thế
hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật,
cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng
thụ, thì chỉ còn le lói 'tinh thần dân tộc' vẫn còn sót lại trong máu
huyết của mỗi người Việt.
Dưới
chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là
những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là
hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ
chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công
nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp.
Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo
quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khảnăng tổ chức và
phối hợp.
Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập
được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của
địch. Những thứ còn lại như 'dân oan biểu tình', 'công nhân đình công'…
chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.
Như trên đã nói, chúng ta đã thành công
trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ,
thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ
còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.
Trí thức
* Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp 'vừa trấn áp vừa vuốt ve' từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá,hổ lốn, lỗi thời.
* Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng
theo đúng tinh thần 'phò chính thống' của sĩ phu xưa nay. Phần lớn
những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học
không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời mộtvực.
*
Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ than phận học trò, kiểu sĩ hoạn
mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao
giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc.
* Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể,
không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị
người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.
*
Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng
thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông
sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng
cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm
lược mà ít kiến thức.
*
Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí
mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã
kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại
chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.
Thử
tưởng tượng xem một tài năng trẻ phải thui chột những năm tháng đẹp
nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trường học vấn, gặm
nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát
triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi,
chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?
Với những phân tích như trên tôi cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.
Chúng ta luôn học hỏi và thay đổi để sống còn và vươn lên, nhưng cũng nên biết rằng đối thủ của chúng ta có lẽ cũng không quá ngu ngốc.
Nếu
kẻ địch cũng nhìn ra được mạnh – yếu của chúng ta, cũng biết tự đổi
thay để thích nghi, cũng biết học cách đấu tranh có phương pháp, có tổ
chức, có chiến lược… thì chuyện gì sẽ xảy ra sau hai mươi năm nữa thật
khó mà biết được.
Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước.
Chúc
các đồng chí chân cứng đá mềm và luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ Tịch: 'khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng'.
Báo cáo trong cuộc họp mặt kiều vận Nguyễn Tâm Bảo