Trong quá trình lịch sử của
đất nước Việt Nam hay bất cứ
đất nước nào trên thế giới, không có cá nhân,
tổ chức hay nhà nước nào thể nói rằng mình
không có những sai lầm.
Những sai lầm của từng
giai đoạn lịch sử, để lại cho hậu
thế những hậu quả mà dù muốn hay không, tất
cả đều phải gánh chịu và tìm cách sửa
chữa.
Với một nhà nước, một
chế độ, một hệ thống, khi có những sai
lầm cần nhanh chóng rút ra những bài học cần
thiết để khắc phục các hậu quả
trước mắt và lâu dài của nó. Những việc
đó cần làm nhanh chóng và thực tâm nhằm tránh cho
những giai đoạn tiếp theo của đất
nước, của dân tộc khỏi những hậu
quả lớn hơn.
Với thực tế Việt Nam
hiện nay, rất nhiều những vấn đề sai
lầm đã được chỉ ra, đã nhiều
người công nhận rằng đang có những “lỗi
hệ thống” và góp ý nhiều cách để sửa
lỗi, thì những chủ trương, hành động
hướng tới sự chuẩn mực là điều
quan trọng, sửa chữa các sai lầm của mình
lại còn phải quan tâm hơn.
Nhiều quan chức Việt Nam
đến cuối đời bước ra khỏi bộ
máy nhà nước mới có thể nói lên những ân
hận, những suy nghĩ và cả những nhận xét
của mình về những việc làm có liên quan, về
một giai đoạn nào đó có những sai lầm, khi
đó họ mới có thể có thời gian nhìn lại mình
chăng?
Nguyên Thủ tướng Võ Văn
Kiệt đến cuối đời, đã có những bài
viết, có những tiếng nói về nhiều vấn
đề mà khi ông làm Thủ tướng, có thể ông không
nói được ra hoặc chưa có thời gian nghĩ
đến. Ông viết: “Tiếc rằng một số
năm sau đó, tư tưởng đại đoàn
kết đã bị coi nhẹ, quan điểm giai cấp
đã được vận dụng một cách máy móc,
một chiều. Trong các chiến dịch cải cách
ruộng đất và cải tạo công thương
nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà
kinh doanh có công với cách mạng đã không được
coi như bạn nữa, gây những tổn thất
lớn về chính trị và kinh tế.
Tư tưởng thành phần
chủ nghĩa đã dẫn tới hai kết quả: làm
mất đi nhiều tài năng của một bộ
phận đáng kể trong dân tộc, đồng thời
đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy
rất cơ bản về chính trị nhưng lại không
đủ chất lượng trong quản lý và xây dựng
…
…Những kinh nghiệm quốc tế
vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng
đối đầu và bạo lực để giải
quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù
hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải
quyết thù hận thì có thể triệt tiêu
được thù hận và tạo ra sức mạnh càng
ngày càng dồi dào hơn. Nếu cứ còn chia rẽ do
hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân,
cho đất nước, cho hình ảnh VN trên trường
quốc tế? (Trích Đại
đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh
của chúng ta – Võ Văn Kiệt – Báo Tuổi trẻ ngày
31/08/2005).
Ông cũng khẳng định: "Tổ
quốc là của mình, dân tộc là của mình, quốc gia
là của mình, Việt Nam là của mình, chứ không phải
là của riêng của người cộng sản hay
của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào cả" (Trích BBC
ngày 30/4/2007- Ông Võ Văn Kiệt kêu gọi hòa giải)
Ông Đoàn Duy Thành, ông Nguyễn Văn
An, các cựu quan chức nhà nước Việt Nam đã
từng nói về những vụ việc lạ lùng trong các
giai đoạn của đất nước dưới
chế độ hiện nay như chỉ thị “Z30 –
tịch thu tất cả những ngôi nhà hai tầng của
nhân dân” mà riêng Nam Định với danh sách hơn 200 gia
đình. Ông An nói: “Thế mà ngày ấy, tịch thu cả
một gia sản của người ta mà chỉ thông qua
kiểm tra hành chính. Điều lạ kỳ là không
hiểu sao ngày ấy người ta cứ nói mập
mờ "Cái này bí mật, không phổ biến rộng,
cứ triển khai theo ý của trên..." (trích báo Pháp
luật TPHCM ngày 6/3/2008)
Chuyện đó mới xảy ra cách
đây chỉ hơn vài chục năm và nguyên nhân vụ việc
đó, chỉ do một câu nói theo ý nghĩ của ông
Đỗ Mười. Trừ Nam Định và Hải
Phòng không thi hành, còn những nơi khác như Hà Nội,
nhiều nạn nhân đã chịu cái lệnh miệng
đó. (Theo Hồi ký Đoàn Duy Thành).
Như vậy có thể khẳng
định rằng không thiếu những chính sách,
những bất cập của hệ thống nhà
nước đã tạo ra những sai lầm nghiêm
trọng mà hậu quả là người dân phải
chịu. Họ mất nhà cửa, tài sản mà cả
đời họ dành dụm, họ trở nên tiêu
điều xơ xác mang đầy những hận thù.
Những hậu quả lâu dài của nó là gì nếu không nói
là những nạn nhân và những người biết
sự thật sẽ mất đi niềm tin ở một
nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản luôn được cho là sáng
suốt tài tình.
Có còn không những sai lầm và những câu hỏi
cần giải đáp
Một thời đã tưởng qua
đi để nhân dân tiếp tục được
hưởng những thành quả của công cuộc
đổi mới đem lại khi xây dựng một nhà
nước “pháp quyền”. Ở đó, mỗi công dân
được tôn trọng, các ý kiến phản biện
được lắng nghe, tâm tư nguyện vọng
của nhân dân được lắng nghe và giải
quyết thỏa đáng.
Vụ việc ở Tòa Khâm sứ và
Giáo xứ Thái Hà hiện nay, người ta thấy nhà
nước đã được gì qua những việc làm
của mình? Nhà nước có chứng minh được
rằng hệ thống đã làm việc công minh và hành
xử đúng như một nhà nước thực sự
của dân, do dân và vì dân để củng cố lòng tin
trong nhân dân như các nghị quyết Đại hội
Đảng đã ghi?
Nhà nước và chính quyền sẽ
trả lời những câu hỏi sau đây ra sao với
hậu thế hoặc chính những người dân quan tâm
hiện nay:
- Khu đất Tòa Khâm sứ, Thái
Hà thành công viên có phải vì nhu cầu không thể thiếu
về công viên và công trình công cộng như nhà nước
nói hay không, nếu không có sự khiếu nại kiên
quyết và dai dẳng của giáo dân, thì những khu
đất đó hiện nay đã là gì? Hay đây chỉ là
cách giải quyết chữa cháy của một quá trình mà
nhiều điều đã không minh bạch?
- Tại sao việc xử lý, giải
quyết vụ việc Tòa Khâm sứ bằng một dự
án với cách làm bất thường, với một
tốc độ nhanh chóng và bí mật đáng ngờ? Nếu
đó là những việc làm hợp với “lòng dân và ý
Đảng” tại sao không thực hiện minh bạch theo
đúng những thứ tự của nó cần có? Tại sao phải làm hết sức
quyết liệt, dùng nhiều lực lượng phong
tỏa khu vực, bãi bỏ cả việc học hành
của các trường học, việc làm ăn kiếm
sống của các hộ kinh doanh trên phố Nhà Chung.
Tại sao phải vội vàng đập bỏ cả
ngôi nhà ba tầng to lớn mà chưa ai từng thấy
sự lãng phí đến như vậy, ít nhất là tận
thu những gì có thể theo tinh thần tiết kiệm mà
nhà nước đã ra sức kêu gọi. Đó là tài
sản của nhân dân, của xã hội trong khi đất
nước đang có quá nhiều người sống
dưới mức nghèo khổ?!
- Việc giải tỏa khu
đất ở Thái Hà vào ban đêm với những lực
lượng đáng ngờ? Tại sao phải làm thế
nếu nhà nước thi hành đúng theo pháp luật và
nguyện vọng của nhân dân là có lý, có tình, “được
đông đảo nhân dân ủng hộ” như hệ thống truyền thông
thường xuyên nói tới?
- Việc đưa những thanh niên
mặc áo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các
bà, các cô, các mợ, các chị… đến Thái Hà để
quấy phá giáo dân đang cầu nguyện nhằm mục
đích gì? Chính quyền và nhà nước, xã hội
được lợi gì sau những hành động đó
nếu không phải là sự đố kỵ, ghen ghét và bài
xích, nhạo báng tôn giáo từ những thanh niên mà sẽ là
chủ nhân đất nước trong một tương
lai gần, các bà mẹ đó sẽ dạy những gì cho
con cháu họ về sự đoàn kết yêu thương mà
xã hội nào cũng hết sức cần?
Nếu đất nước này
sẽ được đám thanh niên kia lãnh đạo, thì
sẽ là gì nếu không là những cuộc bài xích, thanh
trừng tôn giáo lớn hơn? Và điều đó có
lợi cho đất nước, xã hội trong
tương lai hay không?
Ở các ngôi trường, câu khẩu
hiệu thường thấy của người xưa
để lại: “Tiên học lễ, hậu học
văn”. Những đoàn viên thanh niên cộng sản này,
những sinh viên học sinh này có trở thành những cán
bộ tốt hay không, khi mà họ đã được
sử dụng vào việc nhạo báng tâm linh, thần
tượng của một cộng đồng tôn giáo,
như loại mà người xưa thường gọi là
bọn vô đạo?
Thiết nghĩ, trường
đại học đầu tiên của đất
nước này là Quốc Tử giám, ở đó, cha ông ta
đã dạy cho những học trò của mình trước
hết là đạo, đạo làm người,
đạo làm những chí sĩ, những sĩ phu và
những trí thức lớn để phục vụ dân
chúng. Thời nay, nhà nước dạy họ bằng cách
như thế này sao?
Điều đó có lợi gì cho
sự nghiệp: “Đại đoàn kết toàn dân” khi mà
giặc ngoài đang lăm le bờ cõi đất
nước?
- Những cách làm của hệ
thống truyền thông nhà nước với mức
độ ngày càng trầm trọng hơn với giới
linh mục, tu sĩ và giáo dân ở Tòa Khâm sứ, Thái Hà
sẽ để lại điều gì? Nhà nước
được lợi gì khi cả cộng đồng giáo
dân bị xuyên tạc, nói xấu và mạ lỵ ngay trên
chính báo đài nhà nước?
Nhà nước và dân tộc này
được lợi gì, khi TGM Ngô Quang Kiệt, trong bài nói
chuyện thật tâm của mình đã bị hệ
thống truyền thông cố tình cắt cúp để xuyên
tạc và bêu xấu trước toàn thể cộng
đồng dân tộc Việt Nam? Những sự thật
ẩn giấu đằng sau, có giữ được hoàn
toàn bí mật với nhân dân hay không? Tôi nghĩ, những
người dù có bị xúc động nhất thời
bởi “cơn lên đồng tập thể” vì những
lời khêu gợi tính dân tộc bằng xảo thuật
kia mà có những lời lẽ hành động thiếu bình
tĩnh, thì cũng có ngày họ sẽ thấy
được sự thật với nỗi ân hận
của chính mình. Khi đó, liệu có còn sự kính trọng,
tin tưởng vào hệ thống truyền thông và nhà
nước hiện nay?
Những câu hỏi đó, thiết
nghĩ, cần được các lãnh đạo
đất nước đặt ra và tìm câu trả
lời. Để có thể kiểm nghiệm lại
những kết quả đã và sẽ thu được
sau những ngày vừa rồi với hai vụ việc Tòa
Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà.
Những bài học đang được dạy cho các
quan chức và các hành động thực tế
Khi cả hệ thống nhà
nước đã và đang phát động “Học tập
và làm theo đạo đức, tư tưởng Hồ
Chí Minh” một cách khá quy mô, rầm rộ và tốn kém, thì
những việc làm của hệ thống truyền thông và
chính quyền TP Hà Nội vừa qua trong các vụ việc
nói trên có làm theo điều đã được học hay
không?
Trên website của Đảng Cộng
sản có một đoạn tôi đọc thấy như
sau: “Cũng trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ
cấp bách phải làm, trong đó Người nhấn
mạnh vấn đề thứ 6 là: “Thực dân và phong
kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo (Thiên
chúa giáo) và đồng bào Lương (Phật giáo),
để dễ thống trị. Tôi đề nghị
Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và
Lương Giáo đoàn kết”. (Trích Tư tưởng
Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và
về tôn giáo – Báo điện tử Đảng Cộng
sản)
Và “Người cảnh báo không
học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng,
đó là sự sai lầm nguy hiểm, sẽ luôn luôn
thất bại.
Như vậy điểm nổi bật của cách lãnh
đạo dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc
với dân chúng, giải thích cho dân chúng, tin vào dân chúng và
tuyệt đối không theo đuôi quần chúng, nhưng
việc gì cũng phải từ trong quần chúng mà ra”.
(Trích Phương pháp dân
chủ của Hổ Chí Minh trong công tác lãnh đạo –
Báo điện tử Đảng Cộng sản). {Chúng
tôi nhấn mạnh chỗ in đậm}
Vậy, những ý nguyện của
cộng đồng tôn giáo Hà Nội vừa qua, chính
quyền đã thật tâm để giải thích cho dân, bàn
bạc với dân hay chỉ là một câu mệnh lệnh “không
có cơ sở giải quyết” dù đó là niềm tin,
là những tiếng gọi từ lương tâm của
của giáo dân với mảnh đất Thánh Thiêng của
họ. Và khi họ không nhất trí, chỉ yêu cầu các
chứng cứ pháp luật thể hiện nhà nước
pháp quyền, thì chính quyền dùng mệnh lệnh, áp
đặt, cưỡng bức và dùng truyền thông để
bài xích họ?
Trong bài nói chuyện tại
Trường Công an trung cấp khoá 2 năm 1951, ông Hồ
Chí Minh nói: "Tuy Công an là của nhân dân, nhưng
đồng thời cũng phải biết phê bình
người phạm sai lầm. Trong nội bộ, Công an
cũng phải phê bình nhau. Đối với người không
sửa được thì phải tẩy trừ ra khỏi
ngành kẻo để lại thì con sâu làm rầu nồi
canh. Phải làm thế nào cho được lòng
dân, phải thực sự giúp đỡ dân trong công
việc chứ không phải là lối ngoại giao qua loa. Có
như thế thì người dân mới tích cực trở
lại giúp đỡ Công an…".
Với đội ngũ công an các
loại dày đặc trên phố Nhà Chung cùng thép gai, chó
nghiệp vụ và nhiều phương tiện khác cũng
như đội ngũ Công an ở Thái Hà, khi những
người đến đó xịt hơi cay, đến
đó la hét đòi giết người mà họ không hành
động giữ gìn trật tự ổn định,
không thi hành bổn phận của mình thì nhân dân sẽ
nghĩ sao? Họ đang đứng về phía ai khi mà hàng
vạn con người đã về Thái Hà, về Tòa Khâm
sứ đều là nhân dân.
Để có thể làm
được những lời trên, thiết nghĩ
cũng cần nhắc lại lời này: “Tuy trong
quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ
liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc
hội, trước quốc dân và trước thế
giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính
phủ liêm khiết”. Và” “Theo lời quyết nghị
của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là
một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết
tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì
tranh thủ độc lập và thống nhất của
nước nhà” (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, tập
4. NXBCTQG.2002, tr.427, tr. 195)
Thiết nghĩ rằng, nếu làm
đúng những bài học và đường lối
được viết ra một cách hay ho, đẹp
đẽ đó, thì chắc những sự việc vừa
qua với cộng đồng giáo dân đông đảo
thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội nói riêng cũng
như Công giáo Việt Nam nói chung, đã không xảy ra
những điều khó hiểu và đáng tiếc.
Chúng ta cũng đừng một
lần nữa biện minh cho những sai lầm của
mình rằng “Đường lối đúng, nhưng
thực hiện sai” hoặc do cấp này, cấp khác làm
như nhân dân đã từng nghe nhiều. Cái cần nhất
là sự thực tâm và rút ngay những kinh nghiệm kịp
thời sửa chữa sai lầm của mình.
Một dân tộc có sức mạnh là
một dân tộc, đất nước có sự đoàn
kết. Chính sự đoàn kết đã đưa
đất nước này vượt qua muôn vàn khó khăn
trong nhiều giai đoạn lịch sử đất
nước. Vậy thì hà cớ gì lại khêu gợi lên
những sự thù hằn tôn giáo, kỳ thị tôn giáo
bằng những phương tiện truyền thông chính
thống mà đáng lẽ phải lấy sự thật làm
đầu, lấy hạnh phúc và quyền lợi nhân dân làm
mục đích. Một nhà nước của dân, thì hà
cớ gì lại không quan tâm đến nguyện vọng
chính đáng của một cộng đồng tôn giáo
đông đảo được chính nhà nước công
nhận? Hà cớ gì phải tốn biết bao tiền
của, sức lực của nhân dân để tìm cách
giải quyết mà giáo dân cho là không thấu lý, đạt
tình, không dựa trên cơ sở luật pháp.
Phải chăng, ám ảnh từ
những sai lầm của quá khứ đã không thể
vượt qua để tìm một lối ra thật chân
chính và được sự đồng tình của xã
hội một cách ngay thẳng?
Những sai lầm đã qua nhưng
hậu quả còn đó, dù đã được nói
đến nhiều qua quá trình lịch sử nhà
nước này. Có nên tạo ra những sai lầm tiếp
theo nữa hay không? Đó là điều cần xem lại
để có cách hành xử đúng và vì mục đích lâu dài
của đất nước.
Để kết thúc bài viết này,
tưởng cũng cần nhắc một đoạn trong
hồi ký của Đoàn Duy Thành, một đảng viên,
quan chức cấp cao của nhà nước khi đã
hồi hưu:
“Khi chúng ta ở thế “thượng
phong”, phải nghĩ đến lúc “hạ mạt”. Trách
nhiệm của người đi trước, phải
biết để lại “hồng phúc” cho người
đi sau. Chớ để xảy ra chuyện: “Cha ăn
mặn, con khát nước” như dân gian thường nói.
Những người cầm cân nảy mực một
quốc gia càng phải nắm lấy những điều răn
dạy của tổ tiên, và của các bậc hiền
triết đã để lại cho nhân loại biết bao
châm ngôn, tục ngữ... Chúng ta cần đọc kĩ,
suy ngẫm kĩ. Bất kì hoàn cảnh nào cũng có thể
ứng dụng, cho chuẩn mực, cho đúng đạo
lí.
Kinh nghiệm sai lầm trong Cải
cách ruộng đất, rồi chỉnh đốn tổ
chức, cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh, tưởng rằng những bài học
lớn lao đó chưa xa lắm...
Có như vậy mới hi vọng
tạo nên sự hoà hợp đoàn kết với tầm
cao hơn, sâu rộng hơn, không chỉ có lí trí mà còn tình
cảm của người đối với người...
xây dựng một nước giàu, đủ sức
bảo vệ lổ quốc, không bao giờ để
ngoại bang xâm chiếm, nô dịch bằng bất kì hình
thức nào”.
Hà Nội, ngày 23 tháng 9 năm 2009
· J.B Nguyễn Hữu Vinh
|