Hội đồng
Giám Mục Việt Nam, qua bức thư nêu lên quan điểm của mình, đã minh định
“… là những người lãnh đạo trong Giáo hội, chúng tôi có trách
nhiệm rao giảng giáo huấn của Giáo hội về xã hội, nhằm thăng tiến con người và đời sống xã hội một cách toàn diện.” Để
nối dài suy tư của lời minh định này, tôi xin ghi lại phần cuối của bài
tham luận “Công Bình Xã Hội theo quan điểm Công Giáo”, được viết cho kỳ
“Hội Thảo Quốc Tế về Công Bình Xã Hội, Trách Nhiệm Xã Hội & Liên
Đới Xã Hội”, tổ chức tại Hà Nội, kể từ 18 Tháng Mười 2007. Công
bình xã hội là điều mà truyền thống Việt Nam nâng lên thành một ‘đạo’,
như trong câu nói đã biến thành tục ngữ: “Công bằng là đạo người ta ở
đời.” Nhà Nước Việt Nam hiện nay cũng ưu tư về vấn đề này nên đề ra chủ
trương: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển. [20] Từ nhận định này, thử nhìn lại một số thực trạng trên đất nước. 1. Kinh Tế - Xã Hội Ngày
11-09-2006, ông Lê Anh Sơn, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triển,
đã phát biểu như sau tại buổi họp báo trong khuôn khổ diễn đàn của Ủy
ban Kinh tế APEC: “Lấy hệ số bất bình
đẳng làm trục tung, tăng trưởng kinh tế làm trục hoành thì VN có mức
tăng trưởng cao và công bình xã hội tốt nhất APEC”[21]. Nhận định
của ông đặt cơ sở trên số liệu. Nhưng những con số cũng có thể đánh lừa
mình! Việt Nam có thể tự hào vì mức tăng trưởng kinh tế khoảng 8% và
thu nhập bình quân đầu người năm 2006 đã lên đến trên dưới 700UDS…[22] Tuy
nhiên nếu nhìn theo một khía cạnh khác thì lời phấn khởi trên lại làm
cho ta lo ngại. Trong kỳ họp APEC, số liệu về thu nhập bình quân đầu
người của 21 nước thành viên nêu lên nước cao nhất là Hoa Kỳ với 41.800
USD và nước thấp nhất là Việt Nam với 620 USD.[23] Với tốc độ tăng
trưởng 8% so với Hoa Kỳ chỉ tăng trưởng 3,1%, thì Việt Nam cảm thấy hài
lòng; mà không để ý là 8% và 3% của bao nhiêu. Và mục tiêu nhắm đến là
thu nhập 875 USD vào năm 2010. Nhưng thử làm một con tính. Vào
năm 2010, khi Việt Nam đạt được 875 USD nhờ tốc độ phát triển đều đặn
là 8%; thì với tốc độ 3%, Hoa Kỳ sẽ đạt 47.046 UDS. Nghĩa là trong khi
người Việt Nam tăng được 230 USD thì người Mỹ tăng 5.346 USD. Muốn
đạt số thu nhập phụ trội đó (5.346) của Hoa Kỳ thì Việt Nam phải giữ
tốc độ tăng trường 8% liên tục trong 19 năm nữa kể từ 2010, nghĩa là
vào năm 2029 thì người dân Việt Nam mới có thu nhập là 5200 USD. Trong
khi đó, với tốc độ 3% thì bấy giờ người dân Mỹ đã lãnh đến 82.500 USD. 25
năm nữa, thế hệ con em sẽ có hai cái nhìn trái ngược nhau: Một là tự
hào tuyên bố rằng sau bao nhiêu năm giữ vững tốc độ tăng trưởng vào
hàng đầu thế giới thì thu nhập của người Mỹ chỉ còn gấp 15 lần thu nhập
người Việt (82.500/5.200), trong khi đó, 25 năm về trước, người Mỹ thu
nhập cao hơn người Việt đến 67 lần (41.800/620). Hai là đau đớn thấy
rằng 25 năm về trước thu nhập của người VN kém người Mỹ 41.000 USD mỗi
năm, mà 25 năm sau người Việt kém người Mỹ đến 77.200 USD. Và tùy theo
cách nhìn mà thế hệ con em sẽ ca ngợi hay trách móc thế hệ cha anh mình. Ngay
cả con số 700 USD bình quân đầu người cũng phải nhìn lại theo quan điểm
công bình xã hội, để không bỏ qua cái thực trạng là thu nhập của người
dân nghèo chỉ có 200 USD. Đối với giới công nhân lao động, thu nhập
hàng tháng dưới 800.000 đồng, có khi xuống đến 500.000 đồng. Đối với
một số nông thôn nghèo, thì có nơi giá một ngày công là 2.000 đồng,
nghĩa là người lao động thu nhập dưới 60.000 đồng/tháng; trái lại,
những người ‘ngồi mát ăn bát vàng’ thì xem 7 - 8 triệu hàng tháng là
chuyện bình thường. Đấy là chưa kể đến số người thu nhập bất chính hàng
trăm triệu, thậm chí hàng tỉ, mà số này thì không ai có thể thống kê
được. 2. Y Tế - Giáo dục Y tế và Giáo dục
là hai vấn nạn thật lớn liên quan đến từng gia đình trong xã hội Việt
Nam và đó là cũng ưu tư lớn nhất của mọi người khi nói đến công bình xã
hội. Trong thời bao cấp, nhiều trì trệ về kinh tế xảy ra, chất lượng về
chữa trị và giáo dục có thể yếu kém vì thiếu người, thiếu phương tiện,
thế nhưng ít ra sự bất công không nổi lên rõ nét. Người giàu và người
nghèo đều được đối xử như nhau, nghĩa là người có khả năng trang trải
chi phí y tế hay giáo dục cũng không chi trả bao nhiêu, mặc cho Nhà
Nước gánh hết. Đây hẳn cũng là một sự bất công của xã hội, vì nếu công
bình xã hội không có nghĩa là thu nhập quốc dân được chia bằng cho nhau
thì nó cũng không có nghĩa là mọi người phải chi trả hoặc hưởng phúc
lợi xã hội bằng như nhau. Tuy nhiên, cái bất công ấy lồ lộ ra
cùng với sự thâm nhập của kinh tế thị trường. Kể từ đấy, Y tế và Giáo
Dục trở thành nơi cung cấp hàng hóa dưới dạng dịch vụ. Không phải hiếm
thấy cảnh một người vào bệnh viện cần phải giải phẫu nhưng chỉ có thể
lên bàn mổ khi bác sĩ cầm được trong tay biên nhận đã đóng tiền xong.
Có những trường hợp mà vì không thể chạy ra tiền, một gia đình nghèo
đành phải để cho thân nhân mình mang thương tật suốt đời, thậm chí phải
chết đi. Người ta bảo mọi người đều bình
đẳng trước cái chết, nhưng khi công việc chữa trị đã trở thành một dịch
vụ, thì trước cái chết con người cũng không còn bình đẳng nữa. Giàu thì
sống, nghèo thì chết! Ấy là chưa nói đến những người ở vùng sâu vùng
xa, không có tiền nong đi đến bệnh viện mà chữa trị, nên đành phải chết
chỉ vì nghèo. Điều nghịch lý, ấy sự bất công này lại xảy ra chính khi
Nhà Nước muốn thực thi công bình xã hội, bằng cách xã hội hóa y tế và
giáo dục. Y tế cần phải có một hiệu quả, không thể làm qua loa lấy có
được. Không thể nào chữa bệnh nửa chừng, và điều này cần phải có tiền,
mà ngân sách Nhà Nước thì không thể trang trải hết được. Tuy
Nhà Nước có chính sách cấp thẻ khám bệnh miễn phí cho những đối tượng
nghèo, nhưng thực tế cho thấy rằng người cầm tấm thẻ ấy không được đối
xử bình đẳng với một người đã đóng tiền, cả về nhân phẩm cũng như số
lượng và chất lượng thuốc men. Đó là chưa kể tình trạng quan liêu ở
nhiều nơi, khiến cho người có khả năng chi trả thì nhận được thẻ khám
bệnh miễn phí, còn người thật sự nghèo thì không được cấp phát. Trước
tình trạng đó, nhiều đoàn y bác sĩ đã tổ chức đến vùng sâu vùng xa để
khám bệnh và phát thuốc miễn phí, nhưng hiệu quả thì không cao, vì
phương tiện và thời gian không cho phép họ can thiệp vào những bệnh đòi
hỏi kỹ thuật cao hoặc thuốc men đắt tiền… Trong lãnh vực giáo dục,
thời gian vừa qua việc xã hội hóa học đường và việc tăng học phí cấp
Đại Học đã gây nên cuộc tranh cãi về công bình xã hội đối với quyền
được học hành. Để bảo vệ cho việc tăng học phí, những người có trách
nhiệm nêu lên rằng ở Việt Nam, dù đã dành 18% ngân sách cho giáo dục,
thì cũng không thể nào bảo đảm chất lượng giáo dục, khi phương tiện vật
chất thiếu thốn và lương bổng giáo viên không đủ cho họ an tâm dạy học.
Thế nhưng ngay cả khi một con em tại thành phố học tại một trường công
lập, chứ không phải là trường tư, thì chi phí bình quân mà cha mẹ phải
trang trải cho con mình mỗi tháng không dưới 400.000đ, gồm các món tiền
cho cơ sở vật chất, học thêm tại trường hay tại nhà thầy cô, các sinh
hoạt ngoại khóa… Một thực tế khác, ấy là ngân quỹ Nhà Nước
tập trung vào một số trường điểm, để thay vì cung cấp cho học sinh
nghèo một phương tiện bình đẳng mà học tập, thì đấy chính lại là nơi mà
con em nhà giàu mới có thể vào được! Vấn đề công bình xã hội vẫn còn
đặt ra, khi mà không biết bao nhiêu em phải bỏ học, trong một nền giáo
dục được xem là cưỡng bách và miễn phí. Quả như vậy, bởi vì thống kê Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo cho thấy rằng năm 2000, trên toàn quốc có
17.806.158 em học sinh, thì năm 2007 còn 16.371.049 em, trong khi dân
số gia tăng từ 77.685.500 lên 84.158.800 người[24] và trường học cũng
tăng từ 23.960 lên 27.595 trường.[25] 3. Quyền con người Nói đến công bình xã hội, thì không thể không nói đến những quyền bất khả xâm phạm mà tất cả nhân loại đều công nhận. Ngày 04-07-1776, tại Hoa Kỳ, bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Declaration of Independence) khẳng định:
Chúng tôi xem những chân lý này là hiển nhiên, ấy là mọi người được tạo
dựng bình đẳng, rằng họ được Đấng Tạo Dựng ban cho họ một số quyền bất
khả xâm phạm, trong đó có quyền Sống, quyền Tự Do và quyền theo đuổi
Hạnh Phúc. Ngày 26-08-1789, tại Pháp, bản Tuyên Ngôn Về
Quyền Của Con Người Và Của Công Dân (Déclaration des droits de l’homme
et du citoyen) cũng lặp lại ý đó với những từ ngữ khác: Con người
có quyền sinh ra và sống tự do và bình đẳng… Mục đích của mọi hiệp hội
chính trị là bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con
người. Những quyền ấy gồm quyền tự do, quyền tư hữu, quyền an ninh, và
quyền chống lại áp bức. Ngày 02-09-1945, tại Việt Nam, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập cũng mở đầu bằng những lời trong Tuyên Ngôn của Mỹ. Nhưng
quyền tự do ở đây không chỉ là tự do chính trị, theo nghĩa là không bị
một dân tộc nào khác thống trị, mà còn là tự do theo nghĩa rộng nhất,
được John Rawls tóm lược như sau: Tự do tư tưởng - Tự do lương tâm để chọn một tôn giáo, một triết thuyết, một luân lý - Tự do về chính trị (ví dụ: tự do ngôn luận và tự do báo chí, tự do hội họp) - Tự do tổ chức hiệp hội - Tự do cần thiết để giữ toàn vẹn con người mình (nghĩa là tự do khỏi ách nô lệ, tự do đi lại và tự do chọn nghề nghiệp cho mình) - Quyền và tự do được luật pháp bảo vệ. Tất
cả những quyền tự do này, Việt Nam đều công nhận trong Hiến Pháp, tuy
nhiên cách hiểu về thuật ngữ ‘tự do’ thì không đồng nhất giữa Việt Nam
và các nơi trên thế giới. Ví dụ về tự do lương tâm: Ngày 11 tháng 3 năm 2004, ông Lê Dũng, người phát ngôn bộ Ngoại Giao, đã trả lời một phóng viên như sau: Là
một dân tộc đã trải qua đấu tranh gian khổ để giành những quyền tự do
cơ bản nhất của con người là được sống trong độc lập, tự do; hơn ai
hết, nhân dân Việt Nam hiểu rõ giá trị của quyền con người. Ở Việt Nam,
các quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và được tôn trọng trên
thực tế.[26] Ngày 07-11-2006, Việt Nam được chính thức
gia nhập WTO; ngày 09-12, Thượng viện Mỹ đã thông qua dự luật Quan hệ
thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR); và trước đó, ngày 14-09, Quốc
hội Mỹ đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách nước cần được đặc biệt quan
tâm (CPC) do vi phạm tự do tôn giáo. Ngày 17-03-2007, Đức ông
Pietro Parolin, Thứ trưởng Ngoại giao Tòa Thánh, trưởng phái đoàn Toà
Thánh đến Việt Nam từ 5 đến 11 tháng 3, đã phát biểu như sau, khi Radio
Vatican phỏng vấn ngài về tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam: Tôi
nghĩ rằng thông tri của Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh, phát hành sau khi
Thủ Tướng viếng thăm Vatican, đã phản ánh đúng đắn tình trạng tự do tôn
giáo tại Việt Nam. Thông tri đó nói đến ‘những không gian đã mở ra’ và
tôi có thể bảo đảm rằng, dựa trên chứng từ các giám mục, một số vấn đề
đã được giải quyết và một số khác đang được giải quyết.. [27] Thế
nhưng, ngày 08-03-2007, Văn phòng Cao ủy LHQ về Quyền Con Người (UN
HRC) phổ biến tờ trình của Liên Đoàn Quốc Tế về Quyền Con Người (FIDH:
Fédération Internationale des Ligues des Droits de l’Homme). Tờ trình
này khởi đầu bằng câu: “FIDH... lưu ý Hội Đồng Nhân Quyền về
những vi phạm lặp đi lặp lại đối với quyền tự do ngôn luận và tôn giáo
của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”[28] Và ngày
18-09-2007, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự Luật Nhân Quyền đối với Việt
Nam (gọi là Dự luật HR 3096), với 414 phiếu thuận so với 3 phiếu chống.
Và thông qua dự luật này là một cách gián tiếp nói rằng Việt Nam chưa
tôn trọng quyền tự do lương tâm của người dân mình một cách đúng mức. Trên những lãnh vực khác thì cũng có hai mặt như thế: Về tự do ngôn luận
thì báo chí đã nêu lên nhiều hành vi tiêu cực lên đến tận cấp trung
ương, và phê bình thẳng thắn những hạn chế trong nhiều lãnh vực nhạy
cảm. Thế nhưng, cho đến nay, tất cả mọi cơ quan ngôn luận đều trực tiếp
hay giáng tiếp thuộc về chính quyền, mà không có một tờ báo nào do tư
nhân đứng ra làm chủ, ngoại trừ một vài tờ thông tin nội bộ như tờ Hiệp
Thông của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Về quyền và tự do được pháp luật bảo vệ,
thì bao nhiêu vụ án đã được xử để bảo vệ quyền dân sự cho người dân,
thậm chí xử phạt những vụ tham nhũng lên đến cấp thứ trưởng; thế nhưng
cũng còn bao nhiêu vụ tồn đọng khắp các tỉnh thành mà không biết đến
bao giờ mới giải quyết. Về quyền tự do thiết lập hiệp hội thì
đến bây giờ chỉ có những hiệp hội trực thuộc Đảng hay Nhà Nước mới có
tư cách pháp nhân, còn những hội khác, ngay cả Hội Thánh Công Giáo Việt
Nam, thì cũng không có tư cách pháp nhân để góp phần tích cực vào
chương trình xây dựng công bình xã hội. 4. Kết luận Đấy là những vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu tường tận của các chuyên viên. Đối với công cuộc này, Giáo Hội nhắn nhủ: Các
chuyên viên khoa học kinh tế, những người làm kinh tế và những nhà lãnh
đạo chính trị cần phải cấp bách nhìn lại nền kinh tế, bằng cách xem
xét, một mặt, cái nghèo vật chất bi đát của hàng tỉ người, và mặt khác,
sự kiện là ‘các cơ chế kinh tế, xã hội và văn hóa hôm nay khó mà quan
tâm đến những đòi hỏi của một sự phát triển chân chính’. Những đòi hỏi
của một sự phát triển kinh tế chân chính cần phải được dung hòa nhiều
hơn với những đòi hỏi của chính trị và của công bình xã hội. [29] Những lãnh vực đó vượt ra ngoài giới hạn học thuyết của một tôn giáo. Tuy nhiên, học thuyết xã hội của Giáo Hội Công Giáo
cũng có đề ra một hướng giải quyết, ấy là công bình xã hội phải được
đặt trong một nền văn minh mới, một nền văn minh mà người công dân công
giáo có bổn phận góp phần xây dựng. Giáo Hội gọi nền văn minh ấy là nền
Văn Minh Tình Yêu: “Tình yêu phải hiện diện trong mọi
tương quan xã hội và thấm nhuần chúng. Đặc biệt, những ai có bổn phận
phục vụ lợi ích nhân dân cần phải chuyên cần nuôi dưỡng trong bản thân
mình và làm nảy sinh trong người khác, từ người cao trọng nhất đến
người thấp hèn nhất, lòng bác ái, nữ hoàng và chủ nhân của mọi đức hạnh
khác… Tình yêu đó có thể gọi là ‘bác ái xã hội’ hay ‘bác ái chính trị’
và phải được thông truyền đến toàn thể nhân loại. “Tình yêu xã hội’ là
đối cực của chủ nghĩa ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân.” [30] Và
cũng vì thế mà Đức Piô XI, qua thông điệp Bốn Mươi Năm (Quadragesimo
Anno), xem công bình xã hội vừa là một đức hạnh cá nhân vừa là một nền
tảng cho trật tự xã hội: Xã hội chỉ có thể công bình ngày nào các cá nhân và thể chế trở nên công chính mà thôi. ---------- Chú thích: [20] Nghị quyết Đại Hội X của Đảng CSVN. Chương IV Phần A Đoạn 1 [21] VNN Thứ Ba, 3-4-2007 - http://www.bacninh.gov.vn/Story/TinTuc-SuKien/TinHoatDong/2006/9/6223.html [22]
Số liệu về thu nhập bình quân đầu người năm 2006 được ghi nhận khác
nhau trong các văn bản. Số ấy dao động từ 620 USD/năm đến 750 USD/năm. [23] Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI), bản tin ngày 14-11-2006. [24] Cục Thống Kê - Dân số và Lao Động - http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=387&idmid=3&ItemID=6156 [25] Sở Giáo Dục và Đào Tạo - Thống kê - http://www.moet.gov.vn/?page=11.10&view=9264 [26] Ministry of Foreign Affairs - http://www.mofa.gov.vn/vi/tt_baochi/pbnfn/ns040818152525154 [27] Zenit, March 26, 2007 - http://www.zenit.org/article-15039?l=french [28] A/HRC/4/NGO/106 - 08/03/2007: Situation des Droits de l’Homme au Vietnam. [29] Compendium of the Social Doctrine # 564 [30] ibid. # 581
|