Phạm Trần
Đảng Cộng sản Việt Nam đang xốn xang tổ chức các cuộc được gọi là tổng
kết nửa nhiệm kỳ của Đại hội Đảng nhiệm kỳ X, 2006-2010 để “rút kinh nghiệm, tiếp tục phấn đấu thực hiện hoàn thành những mục tiêu mà Đại hội Đảng các cấp đề ra”, nhưng có nhìn lại cũng như không vì trước sau chỉ thấy một mầu xám xịt.
Báo đảng viết: “Trong tổng kết kinh nghiệm giữa nhiệm kỳ
ngoài phát huy những ưu điểm đã đạt được cần tập trung phân tích nguyên
nhân tồn tại và tìm cách khắc phục để sớm thực hiện những chỉ tiêu còn
lại trong chương trình hành động đã đề ra cho cả nhiệm kỳ. Trong tổng
kết lần này, các cấp ủy cần khẳng định mục tiêu kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Bởi hai nội dung này
gắn chặt với nhau, tạo nên sức mạnh hành động của các cấp ủy…”
“…Để khắc phục tình trạng nêu ưu điểm chung chung, tồn tại và khó
khăn muôn thuở và biện pháp khắc phục chiếu lệ, trong tổng kết giữa
nhiệm kỳ cần làm rõ: Những chuyển biến rõ trong việc nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong phát triển phải phân tích cho
được tính bền vững của sự tăng trưởng từ tiềm năng, đặc điểm của địa
phương, đơn vị mình.” (báo điện tử ĐCSVN, 12-9-2008)
Chỉ thị này không mới lạ gì so với các cuộc tổng kết giữa nhiệm kỳ của
các khoá đảng IX, VIII và VII nhưng dù thời gian có khác, việc làm vẫn
giống nhau và những khó khăn, khuyết điểm tồn tại năm sau tiếp tục leo
thang cao hơn năm trước.
Riêng trong lĩnh vực kinh tế kinh tế, Bộ chính trị đảng CSVN đã kết luận về tình hình của 6 tháng đầu năm 2008: “Kết
quả đạt được chưa thật ổn định và vững chắc, tình hình kinh tế- xã hội
còn nhiều khó khăn: Tăng trưởng kinh tế (GDP) chậm lại (chỉ đạt 6,5%,
thấp hơn mục tiêu đã điều chỉnh là 7%); chỉ số giá tiêu dùng còn cao,
tỉ lệ nhập siêu có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao hơn nhiều so với
năm 2007; đầu tư, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn do giá cả
nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao, thiếu vốn, lãi suất cao, tỉ giá
biến động, khả năng cạnh tranh giảm sút; dịch bệnh gia tăng; tình hình
tài chính, tiền tệ và thị trường chứng khoán còn thiếu ổn định; an sinh
xã hội còn nhiều bức xúc; tình trạng tái nghèo có xu hướng gia tăng;
đời sống của nhân dân, đặc biệt những người làm công ăn lương, gia đình
chính sách, nhân dân các vùng bị ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh và
đồng bào dân tộc, người nghèo gặp nhiều khó khăn. Tình trạng đình công
ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh diễn ra nhiều hơn so với cùng kỳ
năm trước...”
Cũng nên biết, nhà nước Việt Nam từng lạc quan theo đuổi mức Tăng
trưởng 8,5% cho năm 2008 nhưng buộc phải hạ xuống 7%, sau khi thị
trường tài chính và mức tăng trưởng kinh tế của thế giới có đột biến vì
gía xăng dầu tăng vọt từ đầu năm khiến vật giá tại Việt nam leo thang
tạo ra lạm phát cao.
Bộ Chính trị cũng dự đoán : “Trong 6 tháng cuối năm, tình
hình kinh tế thế giới còn tiếp tục diễn biến phức tạp. Ở trong nước,
các cân đối vĩ mô chưa ổn định, áp lực tăng đối với mặt bằng giá cả còn
rất lớn; thời tiết, thiên tai, bão, lụt và dịch bệnh dự báo còn diễn
biến phức tạp; việc làm, giảm nghèo vẫn là những thách thức rất lớn.
Việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát cùng với việc bảo đảm an sinh
xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 7% của cả năm 2008 là hết sức
khó khăn, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt, đồng bộ của
Chính phủ, của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, cơ sở”.
Như vậy liệu tình hình xấu của kinh tế và xã hội tại Việt Nam năm 2008
có ảnh hưởng đến Cuộc tổng kết giữa nhiệm kỳ của đảng CSVN khoá X ?
Tất nhiên có ảnh hưởng vì những lẽ sau đây:
- Kinh tế tăng trưởng chậm sẽ làm mất thăng bằng trong cán cân chi phó.
- Nạn lạm phát ngót 30% chưa có triển vọng “giảm nhiệt” sẽ tiếp tục ảnh
hưởng nghiêm trọng đến vật giá và đời sống viên chức, công nhân có đồng
lương cố định.
- Số người thất nghiệp sẽ lên cao, nhất là đối với nông dân và những người không có tay nghề.
- Khó khăn kinh tế sẽ đưa đến nguy cơ có thêm nhiều trẻ em con nhà nghèo phải bỏ học và sẽ gia tăng thêm các tệ nạn xã hội.
Cổ phần hoá tham nhũng
Góp thêm vào những khó khăn kinh tế là việc đảng CSVN chưa chấm dứt
được tình trạng lãng phí công quỹ do chậm “cổ phần hoá”, hay tiếp tục
cưu mang các doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn thua lỗ.
Theo nhiều báo cáo trong nước, sở dĩ có tình trạng “chậm như rùa bò” vì
các Ban Giám đốc đều là người của đảng không chịu cổ phần vì sợ mất chỗ
ngồi hoặc chưa được bảo đảm công ăn việc làm tương lai. Nhiều Công ty
lại tìm mọi mánh khóe giảm gía trị thật để bán rẻ các cổ phần cho cán
bộ, đảng viên có địa vị và giầu tiền mua gây thiệt hại cho quốc dân.
Bằng chứng như tờ Thời Báo Kinh Tế Việt Nam (24-4-2008) viết: “Nếu
không có những giải pháp đột phá thì có thể mục tiêu cổ phần hoá doanh
nghiệp vào năm 2010 sẽ khó thành hiện thực. Đó là quan điểm của đại đa
số đại biểu có mặt tại hội nghị sắp xếp chuyển đổi doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước do Văn phòng Chính phủ tổ chức ngày 23/4, tại Hà Nội”.
Tờ báo viết tiếp: “Báo cáo tại hội nghị cho thấy, trong năm
2007, đã có 150 doanh nghiệp được cổ phần hoá và 271 doanh nghiệp được
sắp xếp, nâng tổng số đơn vị được sắp xếp lên 5.366 doanh nghiệp và cổ
phần hoá là 3.756 doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu đem so với kế hoạch của Chính phủ đề ra cho giai đoạn
2007 -2010 là cần phải sắp xếp 1.553 doanh nghiệp, trong đó đến năm
2010 phải cổ phần hoá được 950 doanh nghiệp thì mới thấy được kết quả
đạt được là khá khiêm tốn”.
Trước đó, báo điện tử của Trung ương đảng đã đưa tin (31-3-2008): “Năm
2007, có 82 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được cổ phần hoá (CPH), đạt
21% chỉ tiêu kế hoạch, nguyên nhân làm chậm quá trình CPH là việc hành
chính hoá quan hệ kinh tế vào tiến trình CPH DNNN.”
Tại Hội thảo “Tháo gỡ vướng mắc hành chính trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”, Luật gia Cao Đăng Vinh nói: “CPH
DNNN là một chương trình đầy khó khăn và phức tạp, động chạm đến nhiều
vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị liên quan đến nhiều tầng lớp người
khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay, CPH được thực hiện theo kiểu phong trào
tự giác phụ thuộc vào các cơ quan, tổ chức đang giữ vai trò đại diện
chủ sở hữu Nhà nước. Cách làm này đã dẫn đến các hậu quả không mong
muốn như: CPH diễn ra rất chậm do phải chờ các cơ quan chủ quản và
doanh nghiệp tự nguyện; các DNNN dễ CPH và có lợi cho các bên liên quan
khi CPH thì làm nhanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc xin rút, hoặc
tìm mọi cách lẩn tránh, kéo dài quá trình làm thủ tục; nhà nước không
kiểm soát được quá trình CPH nên đôi khi vốn Nhà nước bị thất thoát.”
Ngoài ra “Quốc nạn Tham nhũng” không những vẫn còn nguyên vẹn như trước
Đại hội đảng X năm 2006 mà đã lan nhanh khắp nơi khắp chốn trong cả hệ
thống lãnh đạo.
Hãy nghe Mai Quốc Bình - Phó Tổng thanh tra Chính phủ nói thật tại cuộc
Hội thảo quốc tế về Chiến lược Quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm
2020, họp tại Hà Nội ngày 25-9-2008: “Mặc
dù Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng tham nhũng, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội,
tuy nhiên đánh giá một cách nghiêm túc thì công tác phòng chống tham
nhũng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, hiệu quả chưa cao.
Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, đặc biệt trong
quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước, quản lý, sử dụng vốn, tài nguyên, khoáng sản, tài sản Nhà nước”.
Một trong những nguyên nhân của nạn tham nhũng là Việt Nam còn
thiếu cơ chế phù hợp trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách về phòng chống tham nhũng; thiếu một hệ thống giải pháp có tính
chất căn bản, lâu dài, toàn diện, lộ trình cụ thể, hợp lý để thực hiện
tốt các chủ trương, đường lối, chính sách hiện hành về phòng chống tham
nhũng. Bên cạnh đó, một nguyên nhân không nhỏ góp phần gia tăng tham
nhũng đó là đội ngũ cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, phẩm
chất đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức bị xuống cấp.”
(Theo Đài Tiếng Nói Việt Nam, 25-9-2008)
Điệp khúc sau đây trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX tại Đại hội đảng khoá X ngày ngày 10 tháng 4 năm 2006 không khác gì
với Báo cáo của các khoá trước còn đóng góp vào việc “nhấn cho thuyền
chìm” giữa cuộc khủng hỏang kinh tế-xã hội hiện nay.
Báo cáo 2006 viết: “Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước
và công tác cán bộ chậm được khắc phục. Cải cách hành chính chưa đạt
yêu cầu, chưa gắn với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, với đổi mới phương
thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, chưa phối hợp chặt
chẽ với cải cách và đổi mới hoạt động tư pháp. Cải cách tư pháp chưa
theo kịp yêu cầu phát triển. Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ,
công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hoá, biến chất. Dân chủ
ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, tham
nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu,
cửa quyền, thiếu trách nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức,
nhất là ở các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ
máy chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém”.
Báo cáo của Khoá VIII thời Lê Khả Phiêu tại Đại hội đảng IX (19-4 – 22-4-2001) cũng đã viết về tham nhũng: “Tình
trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham
nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ
chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Tình
trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến.
Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình trước Đại hội và trước nhân
dân về việc chậm khắc phục những khuyết điểm trên, làm hạn chế những
thành tựu lẽ ra đã có thể đạt được nhiều hơn”.
Về kinh tế, Báo cáo 2006 thời Nông Đức Mạnh ghi: “….Tốc
độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua vẫn thấp hơn so với khả năng và thấp
hơn nhiều nước trong khu vực ở thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Qui mô nền
kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp….Tăng trưởng kinh tế
chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những ngành
và những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao,
sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động tăng chậm
và còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế còn kém; chi phí kinh doanh cao, chất lượng và hiệu quả còn
thấp….Chưa thực hiện thật tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội. Môi trường ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Nguồn lực của đất nước
chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn
của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng…. Tỉ trọng lao
động trong nông nghiệp còn cao. Lao động thiếu việc làm và không có
việc làm còn nhiều. Tỉ lệ lao động qua đào tạo rất thấp…”
Trong khi đó Báo cáo của Khoá VIII năm 2001 cũng phản ảnh: “Nền
kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua chậm dần, năm 2000 đã tăng trở
lại nhưng vẫn chưa đạt mức tăng trưởng cao như những năm giữa thập niên
90. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) và GDP bình quân
đầu người, nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, kim
ngạch xuất khẩu, nhập khẩu... không đạt chỉ tiêu do Đại hội VIII đề ra.
Nhìn chung, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá
thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp
thiếu thị trường tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài, một phần do
thiếu sức cạnh tranh. Rừng và tài nguyên khác bị xâm hại nghiêm trọng.
Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại tác động xấu đến tình
hình kinh tế - xã hội. Hệ thống tài chính - ngân hàng còn yếu kém và
thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa
hợp lý; đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều…. Kinh tế tập
thể chưa mạnh…”
Trong lĩnh vực “đạo đức con người” của đảng viên và xã hội, Báo cáo năm 2006 của Nông Đức Mạnh viết: “….Tình
trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ…. Số hộ nghèo và
tái nghèo ở một số vùng còn lớn, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn cao.
Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều
khó khăn; nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỉ lệ hộ nghèo cao hơn so với
bình quân cả nước. Một số chính sách trợ giúp người nghèo, hộ nghèo,
vùng nghèo chưa được tổ chức thực hiện tốt…”
Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải
quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn
ở mức cao, đang là một trong những vấn đề nổi cộm nhất của xã hội. Chất
lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Mục tiêu, nội dung,
chương trình, phương pháp dạy và học, sách giáo khoa, thi cử, cơ cấu
đào tạo, trình độ quản lý có nhiều thiếu sót; trong giáo dục và đào tạo
có những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại. Đào tạo chưa gắn với sử
dụng, gây lãng phí. Chi phí học tập cao so với khả năng thu nhập của
dân, nhất là của người nghèo. Giáo dục và đào tạo ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa còn nhiều khó khăn…”
Nhưng gần nhất phải kể đến kết luận ngày 14-2-2008 của Hội nghị Trung ương 6, khoá đảng X hiện nay:
“Công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cấp
uỷ, tổ chức đảng, đảng viên tuy có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn
chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm
trọng.
Không ít tổ chức cơ sở đảng yếu kém, không làm tròn vai trò hạt nhân
chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ sức giải quyết những vấn đề
phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở đảng tê
liệt, mất sức chiến đấu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, thậm chí có một
số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém cả về phẩm chất và năng lực, thiếu
tính chiến đấu, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, vi phạm nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”.
Như vậy, nếu chỉ kiểm điểm những việc làm được và chưa làm được từ 2006
đến 2008, giả dụ như Hội nghị giữa nhiệm kỳ của khoá X sẽ diễn ra trong
năm nay, liệu có trung thực không hay phải giở lại chồng hồ sơ “bê bối”
của 22 năm từ thời Nguyễn Văn Linh đổi mới năm 1986 để xem đảng thành
công hay đã đứt gánh giữa đường?
Phạm Trần
|