Bảo
Giang
Ngày
nay, từ bắc chí nam, từ hang cùng ngõ hẻm của
thôn quê đến thành thị, mọi người mọi
lớp tuổi đều noí và bàn bạc
với nhau về câu chuyện. “Nuốt không được
phải nhả ra”.
Tại
sao lại có chuyện nuốt không được, phả
nhả ra ấy?
Dễ
hiểu thôi, câu chuyện là thế này. Nhà
nước và hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của
cái chế độ ấy muốn nuốt trửng hai khu
đất của Tòa Giám Mục Hà Nội ( khu vực cho
Tòa Khâm Sứ mượn) và Linh Địa
Đức Bà của Thái Hà vào quy hoạch chia Lô, chia
phần cho nhau. Nhưng làm không được thì
phải nhả ra.
Anh
nói chuyện lạ đời., có cái gì gian ác nhất trên
trần đời này mà nhà nước Việt cộng ta
không làm được?
Trời
bất dung gian, bác ạ. Nhà nưóc Việt cộng ta làm
cái gì cũng được, nhưng sau khi chiếm đoạt
và tự ý viết số 42 cho cái nhà ấy vào năm
1959, đến nay, nhà nước ta lại không tìm ra,
hoặc không thể làm ra cái bằng khoán
để chứng minh khu đất và toà nhà người
ta quen gọi là Toà Khâm Sứ có chủ quyền là tòa khâm
sứ. Trái lạ, mọi người đều biết,
đó là khu đất của Tòa Giám Mục đúng như
lời vị Tổng Giám Mục ở đó từng công
bố. “Đất ấy chẳng phải của tây, cũng
chẳng phải của tàu, nhưng là của tòa Giám
Mục Hà Nội.”
Có
giấy tờ gì chứng minh hợp pháp…. kể
cả việc hợp pháp luật
của nhà nước ta hay không?
Dĩ
nhiên là có rồi.
A.
Lịch sử khu đất thuộc toà Giám Mục Hà
Nội.
Năm
1883 , Tổng Đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ
đã cấp quyền sở hữu một khu đất
bỏ hoang lâu năm do chiến tranh và không người chăm
sóc cho Giám Mục Puginier đang cai quản Hà Nội để
xây nhà thờ và cơ sở cho Tòa Giám Mục Hà Nội.
Việc cấp phát này đã trải qua những
thủ tục sau:
·
Chính
vị Tổng Đốc này đã không tìm ra các thừa
kế bất động sản của tháp Báo Thiên đã
bị chiến tranh và thời gian tàn phá. Và đây là
những niên đại còn được ghi nhận. Năm
1434 vua Lê
Thái Tông cho dựng lại chùa nhưng không dựng
lại tháp. Sang thời hậu Lê, chùa
bị đổ nát hoang tàn nên nhà vua đã cho dùng
nền tháp làm pháp trường xử các tử tù, hay cho
họp chợ quanh đó. Đến năm
1547 thì chùa đã bỏ hoang hoàn toàn.
·
Vì nhu
cầu sinh hoạt của tôn giáo và Giám Mục Puginier có
lời thỉnh cầu. nhưng ông Bonnal, lúc
bấy giờ là Công Sứ Pháp Hà Nội đã từ
chối lời yều cầu xin cấp đất xây Nhà
Thờ Lớn (Saint-Joseph) lấy lý do là ông không có
thẩm quyền. thực vậy:
·
Bắc
kỳ tuy là xứ bảo hộ của Pháp, nhưng
vẫn do quan chức của triều đình Huế
quản trị hành chánh.
·
Khi
được cấp chủ quyền, khu đất này là
một khu liền lạc, không hề bị chia cắt hay
chia thành những phần
nhỏ riêng biệt., và không có bất cứ một
tranh chấp chủ quyền nào ngay từ trước
khi được cấp Phát chi Giám Mục Puginier
Như
thế, sự kiện nền đất chùa Báo Thiên có liên
quan tới Bất Động Sản nay thuộc quyền
sở hữu thuộc Tòa TGM Hà Nội cũng chỉ có tính
cách dấu vết lịch sử về bất động
sản, giống như việc đổi chủ của
bất cứ bất động sản nào tại Việt
nam hay trên thế giới. Nó không mang một ý nghĩa, bên
này đè bên kia, hoặc là chiếm đoạt của
nhau.
Theo
đó, việc thủ đắc bất động
sản số 40 phố Nhà Chung của GM Puginier từ
vị Tổng Đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ
là hoàn toàn hợp pháp. Và tài sản này là bất khả
trưng dụng theo luât dân sự của Việt Nam
Bộ
Luật Dân Sự Việt nam, Luật số 33/2005/QH11 cũng
đề cập đến quyền sở hữu như
sau:
• Điều 246: Quyền sở hưũ có thể
được xác lập căn cứ vào bản án,
quyết định của toà án hoặc quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
Vị Tổng Đốc Hà Nội lúc bấy giờ là ông
Nguyễn Hữu Độ, đại diện Triều
Đình Huế cấp quyền sở hữu chủ cho GM
Puginier, quản trị giáo xứ Hà nội là đúng pháp
luật, đã xác lập chủ quyền của Toà Giám
Mục Hà Nội.
Rồi
tài sản nàỳ được bảo quản và kế
truyền liên tục qua các vị GM khác nhau
kể từ 1883 cho tới nay. Từ năm 2007 là TGM Ngô
Quang Kiệt. Các cơ sở của Giáo Khu Hà
Nội xây dựng trên khu đất này gồm có Nhà
Thờ Lớn , khu toà Giám Mục, trường
học và các khu nhà riêng biệt làm
nơi hội họp và sinh hoạt của Giáo Phận.
Tất cả những cơ sở này đều có
chung một địa chỉ, số 40 phố Nhà Chung, phường
Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
B.
Sự liên hệ giữa Khâm Sứ Tòa Thánh và Tòa
Tổng Giám Mục Hà Nội.
Năm
1923, ĐGH cử Đức cha Lécroart, Dòng Tên, làm Khâm sai
sang kinh lược Giáo hội Việt Nam .
Năm 1925, ĐGH Piô XI lập Toà Khâm sứ Đông Dương
và Thái Lan, trụ sở đặt tại Kinh đô
Huế. Ngài cử Đức cha Constantino Ayuti (1876-1928 ) làm
Khâm sứ.
Năm 1928 ĐGH Piô XI cử Đức cha Columban Dreyer làm
Khâm sứ kế vị Đức cha Constantino Ayuti.
Năm 1937 Đức cha Antonin Drapier, người Pháp, OP, làm
Khâm sứ thay Đức cha Columban Dreyer.
Năm
1950 ĐGH Piô XII đặt Đức cha John Dooley, người
Ái Nhĩ Lan làm Khâm sứ.
Đức
Khâm sứ Dooley muốn đặt Toà Khâm sứ tại Hà
Nội, nhưng chưa có địa điểm
cơ sở. Trong khi đó, Tòa Giám Mục Hà Nội còn
một tòa nhà khá lớn, xây chung trên cùng khu đất và
xát bên toà Giám Muc, dùng làm trụ sở sinh hoạt
mục vụ của Gíao Phận. Đức Khâm Sứ
Dooley hỏi mượn để sử dụng trong lúc tìm
cơ sở khác.
Việc
Tòa Giám Mục cho Đức Khâm Sứ mượn
một toà nhà trên khu đất của mình cùng dễ
hiểu. Bởi vì không thể một sớm một
chiều có thể tìm ra địa điểm
và xây dựng xong một cơ sở có
tầm vóc.
Theo
quyết định này, toà nhà trống bên cạnh
Toà Giám Mục được dùng làm tòa Khâm Sứ. Nhưng
Tòa Khâm Sứ không có chủ quyền trên căn nhà cũng
như là khu đất có căn nhà ấy. Bởi vì người
ở thuê, vẫn là người ở thuê.
Không bao giờ người ở thuê có thể trở thành
sở hữu chủ được. Hơn thế, không có
giấy xin tách hộ từ Tòa Giám Mục Hà Nội hay
giấy xin xác nhận chủ quyền bất động
sản từ Tòa Khâm Sứ.
Nhưng
chuyện chẳng may cho Việt Nam và cho toà Giám Mục là
sau thớì kỳ chiến tranh, Việt Nam bị chia đôi
theo hiệp định Geneve năm 1954. Do biến cố này,
rất nhiều người, lương cũng như giáo
đã bỏ miền bắc để di cư
vào nam tìm tự do vì Hồ chí Minh đã phản bội
kháng chiến và thiết lập chế độ cộng
sản trên toàn miền bắc. Cộng sản theo đuổi
chính sách tam vô, Vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ
quốc. Và để thực hiện chính sách
vô tôn giáo này. Hà nội đã ra lệnh
cắt đứt ngoại giao với Vatican và trục xuât
Đức Khâm Sứ và các cộng sự ra khỏi nước(
1959).
Trong
lúc say men chiến thắng vì đã trục xuất
đưọc Đức Khâm Sứ và chiếm được
căn nhà cũng như thu dọn từ nồi niêu xong
chảo, chén dĩa, đũa bát của tòa Khâm Sứ còn
để lại, những kẻ chiếm
đóng lúc ấy, liền lấy con số 42 để
gắn lên cái toà nhà này. Sau đó xây bít bức tường
ô nhục ngàn cách tòa nhà với Tòa Giám
Mục như là một chứng minh là toà nhà
này có một khu đất riêng biệt và là tài sản thuộc
về Tòa Khâm Sứ nên chúng đến kiểm tra và thu
hồi khu đất, toà nhà này từ tay ngoại nhân về
cho dân. Thực tế, dây chỉ là trò gian manh của
những kẻ cướp có súng đạn và có
quyền lực ở trong tay mà thôi. Bởi lẽ, cho
đến hôm nay, người ta không thể tìm ở
đâu ra và chính nhà nước Việt cộng cũng không
thể làm gỉa nổi cái sổ đỏ ( giấy
chủ quyền bất động sản) bao gồm tòa nhà
và khu đất số 42 tự gắn vào là có chủ
sở hữu riêng biệt thuộc Tòa Khâm Sứ trưóc
ngày bị chiếm đóng vào năm 1959.
Đó
là lý do tại sao, hơn mười lăm năm qua, toà
Giám Mục Hà Nội không ngừng làm đơn đòi
lại khu đất và toà nhà bị quận Hoàn Kiếm
chiếm dụng một cách bất hợp pháp này.
Và
cho đến trườc lễ giáng sinh 2007, việc đòi
đất, đòi nhà, đòi công lý và đòi dẹp
bỏ bức tường ô nhục kia càng lúc càng lớn
mạnh. Đức Tổng Giám Mục Hà Nội đã
khởi sướng phong trào cầu nguyện trong hòa bình,
tạo lại niềm tin và sự hiệp
nhất nơi lòng giáo hội càng lúc càng bừng sáng.
Để đến hôm nay, không phải chỉ riêng
ở trong nước, mà tất cả mọi người
khắp năm châu đều chung lòng với Hà Nội
trong bài ca đòi lại công lý từ cái nhà nước vô
pháp vô cương này.
Đó
là một phần lịch sử về bất động
sản của Toà Giám Mục Hà Nội có liên hệ đến
toà Khâm Sứ. Tuy nhiên, Luật pháp và Công Lý chỉ
biểu lộ gíá trị nơi con người và
xã hội biết tôn trọng luân lý. Nó không bao giờ
được thể hiện dưới một chế
độ bạo tàn vô đạo lý như chế
độ cộng sản mà Việt cộng đang áp
chế trên phần đất Việt Nam . Đó là lý do
giải thích tại sao, rạng sáng ngày 19/9/2008. nhà nước
vời hàng hàng lớp lớp công an, mật
vụ, chó nghiệp vụ đã đến
bao vây Toà Giám Mục, và phong
toả toàn bộ khu vực rồi giải phóng mặt
bằng khu đất của Toà Giám Mục, trên đó có
toà nhà cho Đức Khâm Sứ Dooley mượn để
làm Toà Khâm Sứ và chuyển đổi khu vực này sang
một trang khác. Trang đê tiện trong bạo lực…
Sự
kiện hiển nhiên là thế, nên chuyện mất,
được khu đất của Toà Giám Mục ngày này
không phải là gía trị một khu đất và một
khu nhà, Nhưng chính là sự kiện cảnh tình người
dân Việt Nam là: Nền luân lý dạo đức,
công lý của xã hội Việt Nam đã bị chà đạp
và phá hủy dưới thời Việt cộng. Ở
đó, ngươi ta không tìm ra một cán cộng,
nhớn hoặc nhỏ, trong cái guồng máy nhà nước
ấy còn nhân tính. Trái lại chỉ
thấy thú tính bạo ác của đảng thể
hiện mọi nơi và mọi lúc.
Như
thế, cuộc đứng lên đời công lý này cũng
không phải là cuộc thua, mất của tòa Giám Mục
Hà Nội. Bởi lẽ, vai trò của đức Tổng
Giám Mục cũng như hàng ngũ giáo sỹ và giáo dân
ở Hà Nội trong thời gian vừa qua
đã rực sáng và làm trỗi dậy khát vọng đi
tìm chân lý, an bình, không phải cho riêng mình, nhưng là cho
dân tộc Việt. Và chính những tấm lòng dũng
cảm vì nền luân lý và đạo đức vì xã
hội ấy đã cho thế giới nhìn rõ bộ
mặt thật gian ác của cộng sản trước
sau vẫn như một là, chúng không có cách nhìn, cách suy
nghĩ của con người.
Riêng
về sự kiện vật chất của cuộc tranh
đấu thì ngày nay ai cũng biết rằng: Cuộc
Cầu Nguyện đòi hỏi Công Lý ấy đã
đem lại một chiến thắng
vật chất thật sự. Bởi vì , Việt cộng
nuốt không trôi phần đất của Tòa Giám Mục
Hà Nội, đất của Thái Hà trong
ý đồ quy hoạch chia lô buôn bán, chia phần cho
nhau. Nên chúng phải nhả ra trong cái bánh vẽ là
lập ”vườn hoa tạ lỗi “để hòng
lừa bịp nhân dân Việt Nam nhẹ
dạ mà thôi. Bởi lẽ ai không biết, trái đắng
ấy qúa đắng. Chúng nuốt vào người là
phải chết. Nên đành nhả ra, để sống thêm
được ngày nào thì hay ngày đó thôi. Vì nếu, chúng
thực sự muốn làm “ vườn hoa công
cộng” cho dân thì tại sao không tu bổ và làm cho hoành
tráng công viên Đông Đa ở gần đó, để
dân ta được ngửa mặt lên theo vua Quang Trung
Nguyễn Huệ, thay vì phải đi trong cái thế cúi
đầu như chúng. Nên bánh vẽ vẫn là bánh vẽ
thôi.
Theo
đó, sự thật vẫn là: Tuy chúng đã làm
“vườn hoa tạ lỗi” ấy, chúng cũng đừng
quên rằng: Công Lý vĩnh viễn là công lý. Công Lý không
buông tha kẻ vô đạo. Kẻ cướp sau 20 năm
chưa bị bắt, chưa bị kết án,
không có nghĩa là nó vô tội.
Bảo
Giang
|