1. Một di sản độc hại từ quá khứ !
Có
lẽ cái gọi là "văn hóa thân quen, nhờ vả, chạy chọt, luồn lách" đã trở
thành bản sắc văn hóa rất ư là "đậm đà bản sắc dân tộc" của Việt Nam !
Thứ văn hóa này đã trở thành "thân thuộc" và ngấm vào máu mỗi người dân
Việt Nam, từ người dân cùng đinh đến những quan chức cao cấp nhất của
chính quyền.
Điểm nguy hại nhất là thứ văn hóa này đã trở thành
bản chất, tạo nên phong cách ứng xử trong đời sống xã hội của hầu hết
người Việt Nam, ai ai cũng chấp nhận dễ dàng mà không hề thấy sự bất ổn
trong đó. Một điều rất dễ nhận ra thứ văn hóa này là khi có bất cứ
chuyện gì xảy ra trong đời sống mỗi người từ ốm đau, bệnh tật, đến việc
tìm kiếm công ăn việc làm, hay đơn giản là tìm trường cho con học, thậm
chí là khi vi phạm pháp luật... thì việc đầu tiên mỗi người đều làm là
tìm ngay trong danh bạ điện thoại tất cả những người quen để "cầu cứu"
giúp đỡ giải quyết công việc. Nếu không tìm được người cần thiết thì
lại tiếp tục "nhờ vả" bạn bè, người quen tiếp tục tìm kiếm để tìm bằng
được những người có chức quyền để nhờ cậy, xin xỏ giải quyết công việc.
Và cứ như thế, cuối cùng thế nào cũng tìm ra được "người quen", và rồi
mọi chuyện sẽ được giải quyết nhanh gọn, êm đẹp !
Sự nguy hại
của văn hóa này là kỷ cương phép nước bị coi thường. Sự nghiêm minh và
công bằng của pháp luật trở nên trò hề, mờ nhạt và bất công. Công lý
chỉ là sự nhạo báng khi tất cả mọi chuyện đều đã được giải quyết "bằng
tình" (và tất nhiên là cả tiền).
Các cách giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội của chính quyền vì vậy trở nên "méo mó" vì phụ thuộc vào "văn hóa" độc hại này.
Văn
hóa nhờ vả, quen biết, chạy chọt... "nhất thân, nhì thế, ba tiền" (nhất
là có người thân làm quan, thứ hai là có thế lực, ba là có nhiều tiền)
bắt nguồn từ lịch sử và được "thăng hoa" dưới chế độ cộng sản.
Dưới
thời phong kiến xa xưa, do sự thiếu vắng của các phương tiện truyền
thông hiện đại như báo chí, truyền hình (các kỳ thi cử cũng rất hạn
chế)... cho nên có trường hợp là người giỏi nhưng không thể (vì nhiều
khi không biết bằng cách nào) chứng minh được tài năng và kiến thức của
mình nhằm mang ra thi thố và tiến thân, và rồi chỉ có một con đường là
nhờ những người đã nổi tiếng hoặc đang làm quan "tiến cử". Vua và triều
đình vì không thể nào biết hết (nắm hết) các kẻ sĩ trong thiên hạ nên
cũng đành bổ nhiệm theo sự "tiến cử" của thuộc cấp, căn cứ vào tài năng
và uy tín của người "tiến cử". Khi người tiến cử là một người tốt thì
những kẻ được tiến cử cũng sẽ là người tốt nhưng khi người tiến cử là
kẻ xấu và nếu thời buổi hôn quân trị vì thì việc "tiến cử" trở thành
công cụ kiếm tiền hữu hiện và lợi hại. Vì thế dân gian có câu "một
người làm quan cả họ được nhờ".
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm
phong kiến mà thói quen nhờ vả, chạy chọt này đã trở thành tính cách
của người Việt. Và rồi kẻ nào biết luồn cúi, nịnh bợ thì nhiều lúc tài
năng kém cỏi nhưng lại được ngồi những vị trí cao hơn những kẻ có tài
nhưng bộc trực, thẳng thắn. Thế rồi từ đấy lại sinh ra một tính cách
cực kỳ nguy hại khác là chủ nghĩa "cá nhân và luồn lách", chủ nghĩa này
đã được những kẻ bất tài nhưng lắm tham vọng đẩy lên thành một thứ nghệ
thuật.
2. "Chủ nghĩa cá nhân" nguy hại được thăng hoa dưới thời cộng sản
Rõ
ràng văn hóa luồn lách, chạy chọt và chủ nghĩa cá nhân (chỉ lo và biết
đến thân mình còn người khác mặc kệ) là sản phẩm từ quá khứ. Thế nhưng
sau chiến tranh thế giới thứ 2, với việc ra đời Bản Tuyên Ngôn về Nhân
Quyền của Liên Hợp Quốc được tất cả các nước thành viên long trọng ký
kết, thì sự thực thi dân chủ, tôn trọng các quyền tự do căn bản của con
người, tôn trọng và xây dựng nhà nước pháp quyền đã được các chính phủ
cam kết rõ ràng...
Các nước dân chủ (trong đó có cả nhưng nước
Châu Á mang nặng văn hóa Khổng giáo như Nhật Bản, hay Hàn Quốc...) đã
nhanh chóng xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó mọi người dân đều
phải tôn trọng luật pháp, tất cả mọi mâu thuẫn trong đời sống xã hội
đều được giải quyết bằng "lý", thông qua hệ thống toà án và các bộ luật
được tạo nên bởi những nghị sĩ đại diện cho ý chí của toàn dân. Cùng
với việc thực thi dân chủ, công khai và minh bạch các nước dân chủ đã
làm cho thứ văn hóa nhờ vả chạy chọt, tàn dư của chế độ phong kiến mất
dần đất sống.
Trong khi đó thì tại Việt Nam, chủ nghĩa Mác
-Lênin đã được du nhập và hình thành nên nhà nước Việt Nam cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản, (chỉ) với chủ trương "chuyên chính vô sản" và "tập
trung dân chủ" cũng đã trở nên lạc hậu và phản động còn hơn cả các chế
độ phong kiến tồi dở nhất trong lịch sử nhân loại. Chính vì không có
dân chủ, quyền hành nằm hết trong tay các đảng viên có chức có quyền,
những quan chức cộng sản là những kẻ nằm trên và nằm ngoài pháp luật vì
đảng tự cho phép đảng là to nhất (Điều 4 Hiến pháp qui định rằng đảng
là người "cầm quyền duy nhất và tuyệt đối"). Không ai được quyền kiểm
soát và chất vấn các đảng viên cao cấp cũng như sự lãnh đạo của đảng.
Chính
vì sự đặc quyền đặc lợi này mà đảng cộng sản và những quan chức có chức
có quyền (dù lớn hay bé) đều có những quyền lực vô cùng lớn, chính vì
thế họ sẵn sàng "ban phát" bổng lộc cho người thân, bà con, họ hàng và
những kẻ biết a dua xu nịnh. Các viên chức chính phủ đều được bổ nhiệm
theo kiểu giới thiệu, nhờ vả hoặc chạy chọt. Rất ít các cuộc thi tuyển
công chức diễn ra một cách công khai minh bạch.
Mới đây chính
quyền Đà Nẵng chỉ tổ chức một cuộc thi tuyển chức danh Hiệu phó một
trường trung học phổ thông mà đã gây xôn xao dư luận. Mọi người đều lấy
làm ngạc nhiên vì "chuyện lạ" này. Xưa này ở Việt Nam thì dù chỉ để trở
thành một viên công chức quèn ở xã thôi cũng phải "chạy chọt". Cánh cửa
vào công chức nhà nước rất hẹp vì các chỗ đã được giữ cho con em cán bộ
trong ngành.
Cũng chính vì đảng cộng sản độc quyền và tuyệt đối
lãnh đạo đất nước mà không hề chịu sự kiểm soát của báo chí và các đảng
đối lập nên các quan chức của đảng tha hồ thao túng xã hội. Họ dùng các
mối quan hệ chằng chịt của mình để tác động đến toà án, cũng như các cơ
quan nhà nước để trục lợi bằng nhiều con đường, ví dụ nhờ những người
có chức quyền gọi điện thoại, thư tay, bảo lãnh, giới thiệu... Và cứ
như thế mọi việc sẽ diễn ra theo ý muốn của một số cá nhân hoặc các
nhóm lợi ích mà không hề tuân thủ pháp luật, không hề có sự công bằng
và gây ra nhiều bất công trong xã hội.
3. Dân chủ là "đơn thuốc" duy nhất để chữa trị căn bệnh độc hại này !
Rõ
ràng khi mọi mâu thuẫn trong xã hội được giải quyết theo con đường
"chạy chọt, nhờ vả, quen biết" theo kiểu "mười cái lý không bằng một tý
cái tình" thì pháp luật sẽ trở thành vô nghĩa. Những kẻ có quyền thế sẽ
trở nên ngông nghênh, bệnh hoạn vì coi thường pháp luật. Các quan hệ xã
hội sẽ trở nên căng thẳng và dồn nén. Kẻ "thấp cổ bé họng" sẽ luôn bị
chèn ép và thống trị, họ không còn biết tin vào đâu nữa, chất liệu nhân
xã và tự tình dân tộc sẽ mất đi. Tổ quốc, quê hương, nhà nước hay pháp
luật không còn là những giá trị thiêng liêng nữa. Đổ vỡ và khủng hoảng
là điều đương nhiên.
Còn đối với giới trí thức và các doanh
nghiệp thì khi họ chỉ biết đến "chủ nghĩa cá nhân" luồn lách để đạt
được mục đích thì cuối cùng cái đích quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi
người là sự cống hiến và sự thanh thản hưởng thụ những thành quả của
mình cũng chẳng bao giờ có được. không phải tự nhiên mà người dân vẫn
còn tâm lý "ghét" những người có tiền và giàu có hay quan chức.
Một
đất nước bao gồm những tập thể như vậy thì đất nước đó không bao giờ có
tương lai. Đất nước đó không mất nước thì cũng làm nô lệ cho nước khác.
Chính
vì nhận thức được sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, muốn đạt được mọi
việc bằng con đường luồn lách, bằng các giải pháp cá nhân mà Tập Hợp
Dân Chủ Đa Nguyên, đặc biệt là ông Nguyễn Gia Kiểng, đã lên án rất gắt
gao lối làm chính trị kiểu nhân sĩ cũng như văn hóa luồn lách, chạy
chọt của những người Việt Nam.
Phải có dân chủ, phải có sự công
khai minh bạch thì mới chữa được "văn hóa chạy chọt", bất cứ một quan
chức của bất cứ một đảng phái hay tổ chức nào cũng phải được phê phán,
chỉ trích nếu họ làm sai và ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Tất
cả các qui định về thi tuyển công chức, hay bổ nhiệm bất cứ một chức
danh nào cũng phải được công khai, rõ ràng thì mới chọn được những
người có đức có tài.
Tóm lại là bất cứ ai, bất cứ đảng phái
hay tổ chức chính trị nào cũng phải "thi cử" một cách công khai và minh
bạch. Giám khảo chính là lá phiếu của người dân. Quyền lực không bị
giám sát thì sẽ dẫn đến lạm quyền. Tự do báo chí là công cụ cần thiết
để giám sát các hoạt động của chính phủ.
Khi pháp luật minh bạch
và được áp dụng nghiêm minh cho tất cả mọi người hay khi các rào cản
gây nhũng nhiễu người dân được dỡ bỏ thì người dân sẽ "quên" dần văn
hóa chạy chọt, nhờ vả. "Được việc" cho mình một cách nhanh nhất là ước
mong chính đáng của mỗi người dân, vì vậy nếu được việc mà không cần
chạy chọt thì không ai chạy chọt, luồn lách làm gì. Khi phải hạ mình
xin xỏ, nhờ vả ai đó điều này điều khác thì cũng là việc "bất đắc dĩ".
Nhà nước phải tạo ra khung pháp lý rõ ràng để người dân tìm đến các
luật sư, các công quan công quyền mỗi khi "có chuyện" chứ không phải
tìm đến các quan chức để "cầu cạnh".
Một nhà nước hiện đại là
một nhà nước pháp quyền. Công bằng và lẽ phải luôn là khát khao của mọi
người sống trên trái đất. Nhà nước Việt Nam cũng không thể khất lần
khất hồi việc thực thi dân chủ được mãi. Khi các mẫu thuẫn bị dồn nén
lâu ngày thì sẽ dẫn đến việc "tức nước vỡ bờ", các cuộc bạo động và
thậm chí "cách mạng đường phố" sẽ diễn ra.
Dù rằng bản thân
người viết và rất nhiều người khác không hề mong muốn một cuộc "cách
mạng đường phố" xảy ra chút nào, bởi vì đó sẽ là sự hỗn loạn, là sự đập
phá, là sự đổ vỡ..., nhưng "cách mạng" xảy ra hay không là hoàn toàn do
lỗi của chính quyền. Nếu không biết "đổi mới", "cải cách" và "hoàn
thiện" chính mình thì nhà nước nào rồi cũng bị đào thải. Dối trá và bạo
lực chỉ làm đổ thêm dầu vào lửa chứ không giải quyết được các mẫu thuẫn
xã hội.
Các cuộc "thay đổi từ trên xuống" bao giờ cũng ít đổ vỡ
và xáo trộn hơn là "thay đổi từ dưới lên". Chính quyền cộng sản Việt
Nam nên "chủ động" chuyển sang thể chế dân chủ đa đảng, bằng cách lựa
chọn những tổ chức chính trị đứng đắn và có trách nhiệm để cũng chia sẻ
gánh nặng trong việc xây dựng đất nước hơn là để đến lúc không còn cơ
hội để lựa chọn bất cứ một điều gì !
Điều kiện rất cần thiết và
không thể bỏ qua là đảng cộng sản (bây giờ) và các đảng phái cầm quyền
(trong tương lai) phải hợp tác với những tổ chức chính trị thật sự và
các cá nhân có tham gia các tổ chức chính trị thật sự, hay nói như ông
Nguyễn Gia Kiểng là những "người có căn cước chính trị" thật sự. Kiên
quyết từ chối và bất hợp tác với các cá nhân làm chính trị theo kiểu
nhân sĩ, những người thiếu "văn hóa tổ chức" (người có "văn hóa tổ
chức" là người có mong muốn và ý thức tham gia vào các tổ chức chính
trị, muốn tạo ra sự thay đổi xã hội bằng các giải pháp chung thông qua
một tập thể. Người có văn hóa tổ chức dễ dàng chấp nhận các điều lệ tôn
chỉ của tổ chức, tôn trọng sự khác biệt chính kiến ngay trong nội bộ tổ
chức, chấp nhận các quyết định của tổ chức, sẵn sàng thực thi những
nhiệm vụ của tổ chức đề ra, quí trọng và luôn giúp đỡ mọi người trong
tổ chức, không gây bè cánh và luôn vì lợi ích của tổ chức...). Phong
trào dân chủ và các chính đảng cần rút bài học xương máu từ chính quyền
của cụ Trần Trọng Kim và sự thất bại của chế độ Việt Nam Cộng Hoà trước
đây.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên kêu gọi giới trí thức và các
thành phần tinh hoa dân tộc mạnh mẽ dấn thân cho tổ quốc, chấp nhận và
chia sẻ với nhau những giá trị chung xây dựng trên sự đồng thuận. Hãy
cùng nhau chia sẻ tương lai dân tộc Việt Nam trên những "giải pháp
chung", hãy đoạn tuyệt với kiểu làm chính trị nhân sĩ, anh hùng cá
nhân, "mạnh ai nấy chạy". Nếu không có sự đồng thuận với những giải
pháp chung cho cả dân tộc thì mãi mãi những ước mong tốt đẹp của mỗi
người trong chúng ta cũng chỉ là những giấc mơ buồn.
Việt Hoàng (Moskva)
|