1. Khi Ông Mạnh và Ông Dũng đương đầu với nhau?
Đầu
tháng 10 vừa qua, Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu tập Hội
nghị Trung ương đảng lần thứ 8 tại Hà Nội. Khác với những lần họp trước
đây của Trung ương thường kéo dài từ 7 đến 10 ngày, Hội nghị lần thứ 8
chỉ diễn ra 3 ngày từ ngày 2 đến 4 tháng 10, tập trung vào hai vấn đề
chính: 1/Thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước
năm 2008; 2/Định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán
ngân sách nhà nưóc năm 2009. Nói một cách ngắn gọn là Hội nghị lần này
tập trung bàn tính về những đối phó khủng hoảng kinh tế - xã hội trong
năm 2008 và năm 2009. Tại sao 160 Ủy viên Trung ương đảng lại bỏ thì
giờ làm một công việc mang tính hành chánh như vậy?
Tình
trạng lạm phát lên mức 2 con số và sự suy thoái kinh tế hiện nay không
phải là vấn đề mới. Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam đã họp, thảo luận
và đề ra biện pháp giải quyết qua hai kỳ họp trước đây. Thậm chí Bộ
chính trị cũng đã họp mấy ngày liên tục, mời cả một số chuyên gia kinh
tế quốc tế tham dự để vấn kế, sau đó Bộ chính trị đã có hai lần ra văn
thư hướng dẫn cho ông Nguyễn Tấn Dũng phải thi hành. Hướng dẫn đầu tiên
là Kết luận số 22-KL/T.Ư vào ngày 4-4-2008 với 8 nhóm giải pháp kiềm
chế lạm pháp, tăng cường kiểm soát vĩ mô. Hướng dẫn thứ hai là Kết Luận
số 25/KL/T.Ư vào ngày 5 -8-2008 với yêu cầu ông Dũng phải điều chỉnh tỷ
suất tăng trưởng thấp hơn hiện nay và chú trọng đến bảo đảm an sinh xã
hội, tức là không cho xảy ra những cuộc khủng hoảng xã hội, ảnh hưởng
đến uy quyền lãnh đạo của đảng.
Với
hai bản hướng dẫn của Bộ chính trị nói trên, người ta đã thấy có điều
gì bất thường khi ông Nông Đức Mạnh, nhân danh Tổng bí thư đảng nhúng
tay giải quyết thay cho ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng những vấn đề mà
đáng lý ra nó nằm trong phạm vị trách nhiệm của ông Dũng. Tại sao?
Đối
phó với những khó khăn kinh tế - xã hội hiện nay chỉ là chiêu bài của
những tranh đoạt quyền lực giữa phe ông Mạnh và phe ông Dũng. Từ lâu,
ông Mạnh được liệt vào hàng ngũ của khuynh hướng bảo thủ và có chủ
trương "sao y bản chánh’’ của đàn anh Trung Quốc - Tàu làm sao ta y
chang làm vậy cho chắc ăn; từ đó ông được một số lãnh đạo có khuynh
hướng thân Trung Quốc như Nguyễn Phú Trọng, Phạm Quang Nghị, Trương
Vĩnh Trọng, ... phò tá và tạo thành nhóm thân Trung Quốc. Đương nhiên
Bắc Kinh cũng tìm mọi cách nắm ông Mạnh để qua đó khuynh loát nội bộ
lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, không cho tiến gần với Mỹ hầu tạo thế
liên minh chống lại Trung Quốc. Thật ra ông Mạnh không phải người cầm
đầu nhóm thân Trung Quốc mà chính là bộ ba Nguyễn Phú Trọng - Phan
Quang Nghị - Trương Vĩnh Trọng đang tìm cách ngáng cẳng những chính
sách thân Mỹ và thân Nhật của ông Nguyễn Tấn Dũng.
Nhóm
thân Trung Quốc cho rằng Mỹ không có khả năng giúp Việt Nam giải quyết
những khó khăn kinh tế - xã hội mà nhiều khi còn lợi dụng việc giúp đỡ
này để tạo ra cái gọi là "diễn biến hòa bình" trong nội bộ lãnh đạo
Việt cộng. Cuộc khủng hoảng tài chánh ở Thái Lan vào năm 1999 và những
giúp đỡ ASEAN tái thiết kinh tế sau cuộc khủng hoảng lây lan từ Thái
cho thấy: Trung Quốc là nước đã cho Thái Lan vay dài hạn 1 tỷ Mỹ kim và
giúp Nam Dương phục hồi kinh tế, trong khi Mỹ và Nhật đòi hỏi quá nhiều
điều kiện mà không làm được gì. Từ kinh nghiệm đó, nhóm thân Trung Quốc
muốn nội các Nguyễn Tấn Dũng phải làm theo những "vấn kế" của Bắc Kinh
nên mới đẻ ra hai bản Kết Luận 1 và Kết Luận 2 của Bộ chính trị.
Ông
Nguyễn Tấn Dũng, từ căn bản không phải là thành phần thân Mỹ, nhưng
càng ngày ông càng bị đẩy vào thế phải dựa vào Nhật và Mỹ để chống lại
những "biện pháp" bá quyền của Bắc Kinh mà ở vai trò Thủ Tướng phải đối
đầu. Từ tháng 8 năm 2006 sau khi nhậm chức, ông Nguyễn Tấn Dũng đã bị
rất nhiều áp lực từ Trung Quốc trên các mặt kinh tế, đối ngoại, chính
trị, biên giới... Tuy nhiên, ông Dũng không dám có thái độ gần Mỹ một
cách lộ liễu vì sợ phe thân Trung Quốc tấn công, nhất là khi Hoa Kỳ kêu
gọi ông Dũng tham gia vào các cuộc đối thoại về chiến lược, cả hai ông
Dũng và Nguyễn Minh Triết đã cố tìm cách trì hoãn. Nhưng từ đầu năm
2008, hai biến cố sau đây đã làm cho ông Nguyễn Tấn Dũng và những thành
phần thân cận là Thượng Tướng Phùng Quang Thanh (Bộ Trưởng Quốc Phòng),
Thượng tướng Lê Văn Dũng (Chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị) và Trung Tướng
Nguyễn Huy Hiệu (Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng) có những thái độ dứt khoát
trong việc đi gần hơn với Mỹ. Đó là vụ Trung Quốc ngang nhiên áp lực
hãng dầu Exxon Mobil của Mỹ không được cộng tác với Cộng sản Việt Nam
nghiên cứu dầu trên Biển Đông và Hải quân Trung Quốc đã cho tàu chiến
trang bị vũ khí hạt nhân chạy vào trong hải phận Việt Nam ở miền Trung.
Ngoài ra, sự kiện các Tướng Quân khu Thủ Đô Hà Nội đã bất tuân lệnh của
ông Nguyễn Tấn Dũng và Bộ Quốc Phòng tiếp tục các hợp đồng kinh tế với
những công ty của Bắc Kinh mà ông Dũng đã ra lệnh cho Quân đội không
được làm kinh tế từ năm 2007, khiến ông Dũng phải cách chức hàng loạt.
Sau
khi từ Hoa Thịnh Đốn trở về vào cuối tháng 6 năm 2008, ông Nguyễn Tấn
Dũng đã bật đèn xanh cho Bộ Ngoại giao Cộng sản Việt Nam xúc tiến mời
Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John D. Negroponte đến Việt Nam vào trung
tuần tháng 9 để bàn thảo về việc chuẩn bị cuộc họp đối thoại về hợp tác
chiến lược, diễn ra vào đầu tháng 10. Đồng thời ông Dũng cũng bật đèn
xanh cho Bộ Quốc Phòng đưa khoảng 10 ngàn sĩ quan trong các binh chủng
không quân, hải quân, quân báo và người nhái sang Hoa Kỳ tu nghiệp
những kỹ thuật mới về quốc phòng từ 2008 đến 2010. Ông Dũng còn cho mời
một số chuyên gia kinh tế làm việc trong các viện nghiện cứu chiến lược
của Hoa Kỳ tham dự hai Hội nghị tư vấn về kinh tế cho nội các Nguyễn
Tấn Dũng vào cuối tháng 9 năm 2008. Nhìn vào hàng loạt những hành động
nói trên của ông Nguyễn Tấn Dũng kể từ sau khi ông đi Mỹ về vào cuối
tháng 6, không ai mà không thấy ông Nguyễn Tấn Dũng đang tìm cách đi
gần với Mỹ.
Rõ
ràng là ông Dũng đang muốn dựa vào Mỹ để tìm lối thoát cho phe nhóm ông
ta trước sức ép của Trung Quốc và phe nhóm Nông Đức Mạnh. Chính trong
bối cảnh xung đột đó, Hội Nghị Trung ương đảng CSVN lần thứ 8 đã bị thu
ngắn lại chỉ còn có ba ngày - một thời gian quá ngắn để bàn về những
vấn đề dầu sôi lửa bỏng của đất nước. Hệ quả hiển nhiên là lãnh đạo Hà
Nội không những đã không đưa ra được giải pháp nào hữu hiệu để tháo gỡ
các bế tắc trầm trọng về kinh tế và những bất ổn xã hội, mà còn để lộ
cho người ta thấy sự khuynh loát của hai thế lực Mỹ và Trung Quốc càng
ngày càng sâu đậm trong nội bộ lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Cả hai
phe đều sẵn sàng uốn mình bán đứng tổ quốc và quyền lợi của dân tộc để
bảo tồn quyền lực của nhóm mình.
Trung Điền
2008-10-10 18:17:27