Sáng nay, ngày 14.10.2008, hai nhà báo Nguyễn Văn Hải (Tuổi Trẻ) và
Nguyễn Việt Chiến (Thanh Niên) và hai sĩ quan cảnh sát, thiếu tướng
Phạm Xuân Quắc nguyên Cục trưởng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
xã hội (C14), và thượng tá Đinh Văn Huynh, nguyên trưởng phòng điều tra
C14, bị đưa ra toà án Hà Nội xét xử về việc đưa tin trong vụ án PMU 18
(xem Diễn Đàn các số
159, tháng 2.2006 và
161, tháng 4.2006).
Vụ án được khởi tố vào ngày 13.5.2008, với tội danh "lợi dụng chức vụ
quyền hạn trong khi thi hành công vụ" cho cả 4 bị can. Tuy nhiên, trước
các luận điểm cho rằng cả 4 người này đã không hưởng lợi gì trong vụ
này, cuối cùng cơ quan an ninh đã thay đổi tội danh: hai sĩ quan Quắc,
Huynh bị đề nghị truy tố tội "
cố ý làm lộ bí mật công tác" (điều 286, luật Hình sự). Các nhà báo Hải và Chiến bị cáo buộc tội "
lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" (điều 258). Ba ông Huynh, Hải và Chiến đã bị bắt tạm giam từ ngày 12.5, còn ông Quắc được tại ngoại.
Ngay khi được tin các đồng nghiệp của mình, những người từng nổi tiếng
trong mảng thông tin chống tham nhũng và tiêu cực xã hội, nhiều tờ báo
đã phản ứng mạnh mẽ. Nhưng
chỉ sau một ngày,
tất cả đã rơi vào im lặng. Một lệnh miệng đã đến với tất cả các tổng
biên tập các báo trong nước: cấm không được đưa tin, bình luận, kể cả
gián tiếp (như trên Tuổi Trẻ, với loạt bài
Khi nhà báo rơi vào vòng lao lý, nói về các nhà báo nước ngoài lâm nạn nghề nghiệp, bị buộc phải ngưng giữa chừng ! – xem bình luận của Diễn Đàn về việc này
tại đây và
đây).
Tiếp theo đó, ngày 1.8, những nhà báo đã có phản ứng quyết liệt nhất
(là Bùi Thanh, phó tổng biên tập báo Tuổi Trẻ; Nguyễn Quốc Phong phó
tổng
biên tập báo Thanh Niên; Huỳnh Kim Sánh, tổng thư ký tòa soạn báo Thanh
Niên; và Dương Đức Đà Trang, trưởng văn phòng đại diện báo Tuổi Trẻ tại
Hà Nội) bị bộ Thông tin và Truyền thông cách chức và rút thẻ nhà báo vì
các tội "
đã
trực tiếp viết bài, hoặc với trách nhiệm được cơ quan báo
giao đã không kiểm chứng nguồn tin, biên tập, duyệt đăng các tin bài về
vụ PMU18 trong đó có những thông tin sai sự thật nghiêm trọng", và nhất là đã "
đưa ra các thông tin kích động phản đối hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật"
trên các báo sau sự kiện hai phóng viên Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn
Hải bị khởi tố và bắt tạm giam (thông báo ngày 22.8.2008 của Cục báo
chí, bộ TT&TT).
Trở lại phiên toà, dù chưa có thông tin nào được rò rỉ, người ta cũng
thừa biết là các bản án đã được « cấp trên » quyết định sẵn, với những
mục
tiêu cổ điển: răn đe - ở một mức độ mà chính quyền cho rằng « có lợi »
về chính trị - mọi ý muốn đòi mở rộng quyền tự do cho báo chí, quyền
can thiệp
vào chính trị của Đảng, thông qua ngọn cờ chống tham nhũng. Người ta
còn nhớ rằng ban Tổ chức trung ương Đảng đã « cơ cấu » sẵn các ông
Nguyễn Việt Tiến, thứ trưởng bộ Giao thông – Vận tải và Cao Ngọc Oánh,
thiếu tướng, thủ trưởng công an điều tra (đầu năm 2006), để được « bầu
» vào ban chấp hành trung ương ở đại hội X. Nhưng khi vụ PMU 18 bùng
nổ, những nghi vấn hai nhân vật này có liên quan đến bị can chính –
tổng giám đốc PMU18 Bùi Tiến Dũng -, một người với tư cách là cấp trên,
« ô dù » của BT Dũng, một người bị cho là được tiếp cận để « nhờ » chạy
tội cho Dũng, thì cả hai đành
ngậm ngùi nhìn ghế trung ương lùi xa – và với ghế đó, còn là chức bộ
trưởng GT-VT cho ông Tiến, chức thứ trưởng bộ Công an cho ông Oánh kèm
theo quân hàm trung tướng
1…
Nhưng dù « toà » tuyên án như thế nào
2,
việc khởi tố, bắt giam hai nhà báo Hải và Chiến, cùng với việc cách
chức, thu thẻ nhà báo của 4 nhà báo khác, đã đạt kết quả có lẽ còn vượt
qua cả ý muốn của ban lãnh đạo Đảng. Các tờ báo chưa bao giờ « ngoan »
như mấy tháng vừa qua. Ngay cả về những điều kiện ở tù của phóng viên
của mình ra sao, sức khoẻ thể chất và tinh thần của anh ấy như thế nào,
các sự bàn thảo với luật sư tiến diễn ra sao, những điều rất bình
thường ấy cũng không được phép có một dòng tin nào trên các báo Tuổi
Trẻ và Thanh Niên. Lệnh bịt miệng hiển nhiên là đã đến từ cấp cao nhất.
Không cần chờ toà xử, không cần biết là chẳng có điều nào trong luật
báo chí cấm đưa tin về một người bị bắt tạm giam.
Tờ báo Tuổi Trẻ, trước đây luôn luôn đi hàng đầu trong các vụ chống
tiêu cực, tham nhũng, bây giờ mở ra toàn những tin thi cử, bóng đá,
ngôi sao, tin kinh tế - xã hội vô thưởng vô phạt
3…, những vấn đề « nóng » của xã hội mờ nhạt đi.
Điển hình gần đây là vụ 4 nhà lãnh đạo công ty tư vấn quốc tế Thái Bình
Dương (PCI) của Nhật bị chính phủ Nhật truy tố về tội đưa hối lộ cho
quan chức Việt Nam để thắng thầu trong dự án xây dựng « đại lộ Đông –
Tây » ở thành phố Hồ Chí Minh. Báo chí Nhật đưa rất rõ ràng, người nhận
hối lộ
là ông Huỳnh Ngọc Sĩ, phó giám đốc sở Giao thông - Công chính TP HCM
kiêm giám đốc ban quản lý dự án, số tiền là 820 000 đô la
4. Nhưng báo chí Việt Nam (trừ một số rất ít ngoại lệ mà Diễn
Đàn đã phản ánh,
ở
đây),
đều cúi đầu, ngậm miệng. Thậm chí, đọc một vài tin trên các tờ Tuổi
Trẻ, Thanh Niên v.v., người ta còn không biết là báo
Nhật đưa tin PCI hối lộ cho một « quan chức nước ngoài » là nước nào!
Nói chi tới việc cử phóng viên đi điều tra, phỏng vấn đương sự và
những người liên quan, tìm hiểu đường dây hối lộ mà các quan chức PCI
đã thú nhận, khai báo rất rõ ràng. Những vết nứt ở đường hầm Thủ Thiêm
trên đại
lộ Đông – Tây, nếu không được khám phá sớm rất có thể gây ra những tai
nạn lớn với thiệt hại khôn lường, nhưng ngay cả khi tin hối lộ lớn (10%
vốn ODA) đã được phía Nhật xác định, chẳng ai có thể điều tra về một
giả thuyết liên hệ tự nhiên tới chuyện tham nhũng này: công trình đã bị
« rút
ruột », như ở nhiều trường hợp khác đã biết.
Trong một vụ khác, nhiều câu hỏi về nguyên nhân sập cầu Cần Thơ trong
lúc đang xây dựng (cũng với vốn ODA Nhật, như ở PMU 18, hay đại
lộ Đông – Tây), làm chết hàng mấy chục người, vẫn chưa được giải đáp.
Tin chính thức cho biết, sau khi công bố kết quả điều tra về nguyên
nhân gây ra tai biến, bộ Công an đã «
khởi
tố vụ án » về trách nhiệm các bên. Nhưng đó chỉ là các nguyên nhân
kỹ thuật, và
không có một
báo nào đăng lên một bài điều tra độc lập về nguyên nhân của các nguyên
nhân kỹ thuật đó. Với lệnh cấm tò mò, các báo còn đợi tin TTXVN.
Vụ công ty bột ngọt Vedan liên tục 14 năm xả nước thải không qua xử lý
ra sông Thị Vải, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, cùng vài vụ
tương tự được đưa ra sau đó, các báo cũng chỉ dám nói bóng gió rất xa
xôi về trách nhiệm của các quan chức trung ương hay địa phương, sơ hở
hay " thiếu trách nhiệm" trong công tác quản lý môi trường. Tuyệt không
có một cuộc điều tra nào về khả năng (có xác suất cao !) là có
sự thông đồng, hối lộ và ăn hối lộ, giữa các công ty phạm tội và các
quan chức để những người này ngoảnh mặt làm ngơ, dù cho các dòng sông
đang dần
mòn bị giết chết, ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của hàng chục
triệu người, trong đó có chính bản thân và gia đình họ.
Trong một cuộc hội thảo ở Paris ngày 4.10 vừa qua về vấn đề năng lượng
nguyên tử ở Việt Nam, ông đại diện công ty điện của Pháp (EDF)
nhấn mạnh « từ chính » (maître mot) của ngành phải là từ « trong suốt »
(transparence). Những hiểm nguy tiềm tàng trong một nhà máy
nguyên tử đúng là quá lớn để có thể xem thường bất kỳ một chi tiết kỹ
thuật nào, che giấu bất kỳ một sự cố nào xảy ra trong quá trình xây
dựng, điều
hành nhà máy. Yêu cầu "trong suốt" đó có thể được đảm bảo trong một cơ
chế mà nhà báo bị bịt miệng ? Nếu những vụ đi đêm xảy ra như ở dự án
đại lộ Đông – Tây, nếu các quan chức có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước
những vi phạm của nhà thầu, nhà xây dựng (như trong vụ Vedan), vì
báo chí không được quyền điều tra, không được quyền công khai đặt ra
các câu hỏi cần thiết khi một sự cố xảy ra, một tai nạn như Tchernobyl
hoặc khủng khiếp hơn, là hoàn toàn có thể xảy ra, giết hại hàng vạn
người (hay nhiều hơn), khiến cả một vùng rộng lớn của đất nước bị san
bằng, mọi sự sống bị huỷ
diệt…
Tự do báo chí là một đòi hỏi cơ bản của xã hội hiện đại, dù ở thể chế
nào. Ở Việt Nam, sự đặt toàn bộ báo chí dưới « sự lãnh đạo của Đảng »
đã là một vi
phạm nghiêm trọng quyền tự do cơ bản ấy. Tuy nhiên, trong những năm
qua, những nhà báo chân chính, dũng cảm, trong một số chừng mực vẫn
vượt qua được những giới hạn mà bộ máy quản lý của ĐCS đặt ra, để phản
ánh được nhiều vấn đề thực của xã hội, của nền kinh tế, văn hoá v.v.
Những vấn đề gây bức xúc trong nhân dân, khi được đưa lên báo, tạo ra
nguồn dư luận, một sức ép có thật đối với nhiều quan chức, buộc họ phải
« giải trình » hay buộc cấp trên của họ phải có quyết định. Phản ứng
của bộ máy, ít ra là từ hơn một năm nay, như các vụ xử các nhà báo cho
thấy, là siết chặt, là buộc báo chí phải « đi đúng lề đường bên phải »
theo như cách nói của một ông thứ trưởng bộ TT&TT (lề đường mà ban
tuyên giáo và bộ 4T toàn quyền vẽ ra).
Về thực chất, đó là tước quyền tham gia chính trị (với tư cách công
dân) của các nhà báo, và qua đó, của xã hội. Sự bổ nhiệm các quan chức,
dù họ bất
tài, dù họ tham ô, là chuyện của Đảng, không ai khác được có tiếng nói.
Giải quyết chuyện tham nhũng, thất thoát của công, là chuyện « nội bộ »
của
Đảng.
Chưa nói về các nguyên tắc cao xa của một chính quyền « do
dân, vì dân » hay gì gì khác, chỉ cần so với những tác hại nó gây ra
trong vài ví dụ kinh tế
- xã hội kể trên (thậm chí có thể gây ra ở cấp độ trầm trọng hơn),
người ta thấy ngay tính chất của cái quyết định bịt miệng các nhà báo
ấy : trước hết, đó là một tội ác.
Như mọi tội ác, thủ phạm thường không phải là tất cả những người có mặt
trên hiện trường, mà là một người hay một số người, một tập thể cụ thể
nào đó.
Ở đây là những người nắm thực quyền sinh sát về công tác tư tưởng,
tuyên giáo của ĐCS. Những người khác trong bộ máy lãnh đạo của Đảng
nghĩ gì ?
Ngăn chặn những kẻ phạm tội tiếp tục hoành hành, hay ngoảnh mặt « lo
chuyện của mình » ?