Tình hình trước khi xẩy ra cuộc Ðảo Chánh : Những
tháng giưã năm 1960, Ông Diệm với tư cách Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh
Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà, đi thăm các Bộ Tư lệnh Quân Khu I – 2 – 3 –
4 và Quân Khu Thủ Ðô để nói chuyện với các Sĩ Quan thuộc các Quân Binh
Chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng : Người Mỹ muốn đổ các đơn vị
tác chiến ( Combatant Units) cuả họ vào lãnh thổ Nam Việt Nam để đảm
nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên
chiến trường này … Tại Hội trường Bộ Tư lệnh Quân Khu I, Ðà Nẵng,
trước mặt rất đông Sĩ Quan : cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, Ông Diệm đã
nói rõ ý chí cuả Ông là nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân
tác chiến vào Nam Việt Nam mà chỉ chấp nhận vai trò cuả người Mỹ trong
nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà. Ông nói :
“ Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện cuả Mỹ, chúng ta cần có sự
viện trợ quân sự, kinh tế cuả người Mỹ, nhưng chúng ta không cần, và
nhất định không chấp nhận để cho người Mỹ chiến đấu thay thế cho chúng
ta trong công cuộc bảo vệ Quê Hương, Ðất Nước này. Cuộc chiến đấu này
không thể đơn thuần giải quyết bằng sức mạnh cuả vũ khí chiến tranh,
nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến. Nếu
người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghiã, mất sự hậu thuẫn
cuả nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng Thống bù nhìn và anh em, các Sĩ
Quan sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc... “ Ông nói thật
nhiều, với tất cả tấm lòng và trái tim cuả Ông. Rồøi ông kêu gọi tất cả
các Sĩ Quan Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoa,ø đã từng nêu cao tinh thần anh
dũng, can đảm trên mọi chiến truờng khắp các Vùng Chiến Thuật (
Tactical Areas) , hãy cùng Ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi
đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc mà ông đã vạch ra và
quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi sức ép bất cứ từ đâu đếùn ! Những
cánh tay giơ lên, những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội Trường Bộ
Tư Lệnh Quân Ðoàn I- Quân Khu I “ Quyết tâm ủng hộ Tổng Thống !
Quyết tâm giữ vững lập truờng chiến đấu cuả Tổng Thống để bảo vệ Tổ
Quốc ! “ Tôi lúc đó
chỉ là một Chuẩn Uý hiện dịch, nhưng với cái vốn kinh nghiệm gần 7 năm
kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, 2 lần bị Tây bắt nhốt đầu vào
tù, và hơn 6 năm chống cộng sản, tôi cũng đủ trí khôn để thông cảm với
những khó khăn, nguy hiểm đang đợi chờ Ông Diệm, vị Tổng Thổng đầu tiên
cuả nền Cộng Hoà non trẻ tại Nam Việt Nam. Tôi nhìn các Sĩ Quan đàn anh
đứng chung quanh, hình như ai nấy đều linh cảm thấy có một cái gì nặng
nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng Thống khả kính và can đảm cuả mình.
Phải thành thực mà công nhận rằng : vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo
cuả Ông Diệm, Quân Ðội ra Quân Ðội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ Quan ra Sĩ
Quan, chớ không có … hổ lốn, bát nháo như một số khá đông cuả những
thời gian sau này, sau khi Ông Diệm không còn nưã.. Tôi không phải là
người công giáo như Ông Diệm , mà chỉ là một quân nhân hiện dịch thuần
tuý, nhưng cũng thấy mắt mình nhoà đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che
chở cho Ông, cũng như cho Ðất Nước này… Ngày 19 – 6 –1960
: Ðại Sứ Mỹ tại Sài Gòn Elbridge Durbrow, gửi cho ngoại trưởng Mỹ,
Christian Herter ở Hoa Thịnh Ðốn 1 điện văn mật thông báo tình hình Sài
Gòn : Có thể có 1 cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền cuả Ông Diệm,
trong khi đó ở nông thôn, hoạt động cuả cộng sản gia tăng mạnh mẽ… Phần
cuối, bản văn kết thúc “ Nếu thế đứng cuả Ông Diệm tiếp tục giảm
sút, không còn phù hợp với tình thế chính trị , tâm lý, kinh tế và an
ninh tại đây nưã thì có thể là điều mà chính phủ Hoa Kỳ nên tính đến
những phương cách khác để hành động và thay thế người lãnh đạo hầu đạt
đến những mục tiêu cuả chúng ta …( If Diem’s position in the country
continues to deteriorate as result failure adopt proper political,
psychological, economic and security measures, it may become necessary
for US Government to begin consideration for alternative courses of
action and leaders in order to achieve our objectives…). Ngày 11 – 12 tháng 11 – 1960
: Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Lữ Ðoàn nhẩy dù và Trung Tá Vương
Văn Ðông ( nhưng ban đầu chủ yếu lại là Vương Văn Ðông ) chỉ huy một
lực lượng quân sự gồm nhiều Tiểu Ðoàn nhẩy dù và 1 đơn vị Thuỷ Quân Lục
Chiến, bao vây dinh Tổng Thống để làm một cuộc đảo chánh với lý do được
công bố trên đài phát thanh Sài Gòn đã bị quân đảo chánh chiếm giữ “
… Ông Diệm đã tỏ ra không đủ khả năng cứu đất nước khỏi họa cộng sản
cũng như bảo vệ sự đoàn kết quốc gia… - Diem has shown himself
incapable of saving the country from Communism and protecting national
unity… “ Biết rằng
cuộc âm mưu đảo chánh này không do những nhân vật chính trị có danh
tiếng, không có hậu thuẫn chính trị thực sự cuả dân chúng, không có sự
tham gia cuả các Tướng Lãnh cũng như lực lượng quân đội dưới quyền cho
nên Ông Diệm tạo thế trì hoãn, thoái thác nhượng bộ trước sự đòi hỏi
cuả phe đảo chánh là từ bỏ chính quyền và đợi cho các lực lượng quân
đội, hầu hết vẫn còn trung thành với ông, từ các nơi kéo về dẹp loạn.
Cuộc đảo chánh bất thành vì quá non kém về tổ chức, lãnh đạo cũng như
đường lối chinh trị và quân sự. Tuy nhiên cuộc đảo chánh bất thành này
đã đem lại cho chính quyền cuả Ông Diệm những bài học quan trọng : A.-
Cộng sản càng tích cực tung cán bộ vào thành phố khai thác những mâu
thuẫn, bất đồng giưã chính quyền và các nhân vật , các nhóm chống đối
tại thành thị. Những mâu thuẫn này tất nhiên phải có trong hoàn cảnh
miền Nam Việt Nam đang phải thực hiện một xã hội tương đối tự do, dân
chủ, phồn thịnh ( hơn hẳn miền Bắc ), cùng một lúc phải đối phó với
cuộc chiến tranh xâm lăng, phá hoại toàn diện cuả cộng sản Hà Nội, được
chỉ đạo và yểm trợ từ Mạc-Tư-Khoa cũng như từ Bắc Kinh, theo “
Ðường lối cách mạng vô sản toàn cầu cuả Ðệ Tam Quốc tế – Global
Proletarian Revolution Policy of the Third International “ B.- Thi hành 1 đường lối vô cùng khó khăn khả dĩ đáp ứng được nhu cầu cuả tình thế : Giữ
vững chính quyền đang bị âm mưu khuynh đảo từ bên ngoài do bọn tài
phiệt quốc tế, ở bên trong thì do cộng sản chỉ đạo. Ngay trong nội bộ
hàng ngũ quốc gia cũng có những phần tử ham danh, hám lợi cũng như
quyền lực đang chờ đợi thời cơ để hành động. Giữ
vững tinh thần kỷ luật và lòng trung thành cuả quân đội, là sức mạnh
bảo vệ chính quyền, chế độ. Ðồng thời giữ vững sự đoàn kết các tôn giáo
là sức mạnh hậu thuẫn cuả nhân dân, nhưng cả hai : Quân Ðội và Tôn
giáo lại là những mục tiêu quan trọng nhất mà cả 3 lực lượng chống phá
nói trên đang nhắm vào để làm nổ bùng một cuộc đảo chánh khác, có tầm
vóc quy mô, có tổ chức tinh vi hơn cuộc đảo chánh đã thất bại một cách
dễ dàng ngày 11 tháng 11 năm 1960. Ngày 20 –12 – 1960
: Ðể đánh lưà dư luận quốc tế, để thu hút các nhóm chống đối và lôi kéo
nhân dân Miền Nam, cộng sản Hà Nội tuyên bố chính thức cho ra mắt công
khai Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam tại 1 Chiến Khu (
Strategic War Zone ) cuả cộng sản tại phiá Ðông cuả Nam Việt Nam, thành
phần bao gồm chừng 100 nhân vật nói là đại diện cho các nhóm chính trị
đối lập với chính quyền, đại diện cho các tôn giáo có mặt tại Nam Việt
Nam, các lực lượng vũ trang còn sót lại sau khi bị quân chính phủ đánh
tan trong các chiến dịch hành quân tại miền Tây trước đó vài ba năm.
Mặt trận này thực sự đặt dưới quyền lãnh đạo cuả một cán bộ cao cấp cuả
Hà Nội , thuộc Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng ( Political
Bureau of the Party’s Central Committee ) . Ngày 1 tháng 4 – 1961 : Cộng sản tung 1 Tiểu Ðoàn chủ lực quân, có du kích địa phương tăng cường, gồm
hơn 400 quân, tấn công thử sức vào 1 ngôi làng chiến đấu kiểu mẫu cuả “
Quốc sách ấp chiến lược – National policy of Strategic Hamlets “ thuộc
Tỉnh Kiến Hoà, nhưng bị quân đội Cộng Hoà đánh tan và bị thiệt hại nặng
nề. Hai ngày sau, cộng sản thử sức lần nưã bằng cách tấn công vũ bão và
bất ngờ vào khu vực Bến Cát, phiá Bắc Sài Gòn, nhưng hơn 100 quân cộng
sản bị quân Cộng Hoà tiêu diệt, bỏ xác tại trận. Cộng sản buộc phải
đổi hướng, tập trung nỗ lực vào những hoạt động võ trang phá hoại tại
các thành phố, tung cán bộ len lỏi vào trong các tầng lớp nhân dân,
hàng ngũ tôn giáo có đông đảo quần chúng nhưng hệ thống tổ chức ít chặt
chẽ, để tìm cơ hội gây xáo trộn chính trị tại các thị trấn, nơi tập
trung đông đảo dân cư, làm suy yếu chính quyền Miền Nam thay vì nôn
nóng giành chiến thắng quân sự để hỗ trợ cho các hoạt động chính trị và
ngoại giao. Ngày 12 –5 –1961
: Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson , trong cuộc viếng thăm Á
Châu, đã gặp Tổng Thống Diệm tại sài Gòn. Ông Johnson ca tụng Tổng
Thống Diệm là một Churchill cuả Á Châu và nói, “ Ðối với thế đứng cuả
Hoa Kỳ tại Á Châu, Tổng Thống Diệm là nhân vật, là người bạn không thể
thiếu được.” Tuy nhiên, khi trở về Mỹ, ông Johnson lại báo cáo cho Tổng
Thống Kennedy cũng như cho các nhân vật chính trị cao cấp biết rằng :
Ông Diệm vẫn giữ vững lập trường không cho quân chiến đấu cuả Hoa Kỳ
vào Việt Nam, trừ phi cộng sản Hà Nội xua quân tràn qua vĩ tuyến 17 một
cách đại quy mô như cộng sản Bắc Hàn đã xua quân tràn qua vĩ tuyến 38
hồi 1950. Ngày 18 - 9 - 1961
: Cộng sản bất thần mở trận đánh lớn cấp Trung Ðoàn ( Regiment ) , tung
1,500 quân bao vây và đành chiếm Tỉnh Lỵ Phước Vinh , sau khi đã mở
chiến dịch gồm 41 trận đánh lớn nhỏ trên khắp lãnh thổ Miền Nam để áp
đảo và chia sẻ lực lượng đối phương. Sau đó 3 tuần lễ, tại diễn đàn
Quốc Hội, Tổng Thống Diệm chính thức tuyên bố với quốc dân và thế giới
là Việt Cộng, với sự chỉ đạo và yểm trợ cuả cộng sản quốc tế đã chính
thức biến cuộc chiến tranh du kích trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà
thành một thứ chiến tranh xâm lăng quy mô thực sự, có sự tham chiến cuả
quân chính quy cộng sản, được trang bị tối tân và hùng hậu… Bọn tài
phiệt quốc tế, buôn bán chiến tranh, càng thêm cơ hội để tung tiền và
thủ đoạn để đưa đám “ Lobbyists “ vào các hành lang, ngõ ngách cuả Quốc
Hội , hệ thống truyền thông Hoa Kỳ, dọn đường cho một kế hoạch ào ạt đổ
quân tác chiến cuả Mỹ và lôi kéo một số đơn vị quân đội Ðồng Minh vào
chiến trường Nam Việt Nam. Chậm chân là thiệt hại cả … núi đô la chớ
không phải chuyện đuà. Nhưng, lại tiếng nhưng ở chỗ này ! Nhưng Ông
Diệm nhất định không chấp nhận cho quân đội tác chiến cuả Mỹ chiến đấu
tại Nam Việt Nam . Còn Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy thì cũng
không hăng hái, thiết tha cho lắm với việc đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào
chiến trường Miền Nam trong hoàn cảnh lúc này vì nó không như lúc cộng
sản Bắc Hàn xua quân cấp Quân Ðoàn ( Army Corps ) tràn qua vĩ tuyến hồi
năm 1950… Ông Kennedy vẫn trung thành với “ Ðường lối ngăn chặn –
Containment Policy “ để chống lại sự bành trướng cuả phong trào cộng
sản trên thế giới từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến, bằng những phương cách ít
tốn sinh mạng người Mỹ nhất, trừ trường hợp nền an ninh cuả Mỹ bị đe
dọa trực tiếp, nghiã là ông Kennedy chỉ chấp nhận hy sinh nhân mạng cuả
Mỹ trong Trường hợp bất khả kháng - In case of absolute necessity “ .
Thế thì “ chúng nó “ bắt buộc phải loại trừ Ông Diệm khỏi ngôi vị lãnh
đạo Nam Việt Nam trước đã, và sau đó bất cứ kẻ nào làm ngăn trở việc
đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào Nam Việt Nam cũng đều bị “ chúng nó “
xoá sổ hết ( kể luôn cả Tổng Thống Mỹ ). Ngày 2 – 1 –1963
: Tại Aáp Bắc, cách Sài Gòn 40 dậm về phiá Ðông Nam, gần 2 Trung
Ðoàn, 2,500 quân thuộc Sư Ðoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, trang bị
vũ khí tự động, có xe tăng, thiết vận xa, pháo binh và không quân ( cả
khu trục cơ lẫn trực thăng ) yểm trợ, mở cuộc hành quân bao vây, tiêu
diệt 1 lực lượng cộng sản gồm chừng I Tiểu Ðoàn ( Battalion ) hơn 300
quân chủ lực địa phương, với hoả lực yếu kém hơn rất nhiều, lại không
có xe tăng cũng như không quân, pháo binh yểm trợ. Kết quả thật là đau
buồn : Cộng quân thoát khỏi vòng vây gần như toàn vẹn chủ lực, sau khi
đã gây cho quân chính phủ những tổn thất đáng kể. Thật là một cơ hội
bằng vàng để bọn tài phiệt quốc tế dùng ảnh hưởng, sức mạnh cuả đồng đô
la để lái các cơ quan truyền thông , hướng dẫn dư luận, gây áp lực tại
Hoa Kỳ, từ Quốc Hội cho đến chính phủ phải bằng mọi giá đổ quân tác
chiến cuả Mỹ vào Việt Nam ngay lập tức. Nếu không, “ Tiền đồn chống
cộng “ cuả Mỹ tại Á Châu sẽ xụp đổ và “ Chính sách ngăn chặn cộng
sản “ cuả Mỹ trên thế giới sẽ thất bại và … nền anh ninh cuả chính
nước Mỹ cũng sẽ bị lâm nguy … Chúng đem câu nói cuả Lenin, Sư Tổ cuả
cách mạng vô sản 1917 tại Nga, người đã mở đường cho phong trào cộng
sản thế giới bùng ra hết cách ngăn cản sau thế chiến thứ 2, mà dọa cả
nước Mỹ “ Trước hết, chúng ta hãy chiếm giữ Ðông Aâu, rồi nắm lấy khối
quần chúng khổng lồ ở Á Châu, sau đó bao vây Hoa Kỳ là thành lũy cuối
cùng cuả chủ nghiã tư bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa Kỳ
cũng sẽ rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rưã – First, we
will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will
encircle the United States which will be the last bastion of
Capitalism. We will not have to attack, it will fall into our hands
like an overipe fruit.”(The Death of A Nation – John A. Stormer – The
Liberty Bell Press – Florissant Missouri, July 1978, Page 14 ). Thế là
“ người ta “ phải tính đến 2 điều quan trọng nhất để lật đổ chính quyền
Ngô Ðình Diệm : Thứ nhất : Phải giao cuộc đảo chính vào tay nhân dân
miền Nam làm lực lượng chính yếu thì nó mới có chính nghĩa ( just
cause ). Ai có thể huy động được đông đảo dân chúng ? - Phải cần đến
một tôn giáo nào đó, có khả năng lôi kéo được nhiều người nhẩy vào
cuộc. Thứ hai : Phải đẩy được đông đảo Tướng Lãnh có quân trong tay
đứng ra ... cứu dân, bảo vệ đất nước trước sự rối loạn bên trong và
quân thù ( cộng sản ) đang rình rập , chờ đợi 1 cơ hội thuận lợi ở bên ngoài.... Ngày 8 –5 –1963:
Bùng nổ vụ rối loạn, chống đối ở Cố Ðô Huế, giưã hàng chục ngàn tín đồ
Phật Giáo với nhân viên chính quyền địa phương và các lực lượng an
ninh. Tổng Thống Diệm tuyên bố trên đài phát thanh quốc gia là vụ này
có bàn tay cuả cộng sản nhúng vào, gây thêm tình trạng khó khăn cho
địa phương, tạo thêm sự mâu thuẫn trầm trọng giưã chính phủ và 1 tôn
giáo lớn trong nước. Cuộc rối loạn ngày càng gay go, dữ dội, quyết liệt
và biến sang hình thức “ Một tôn giáo lớn nhất trong nước – thường kể
luôn cả những người chỉ thờ cúng Ông Bà, không được đào tạo, huấn
luyện, sinh hoạt tôn giáo chặt chẽ- chống lại một hệ thống chính quyền
được lãnh đạo bởi 1 Tổng Thống và các nhân vật cao cấp, trọng yếu, đa
số là người thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã. “ Phiá
chính phủ thì lên tiếng : Tổng Thống Diệm sử dụng người theo nguyên tắc
thông thường cuả các nhà lãnh đạo là căn cứ vào tài năng, đức độ, sự
tin cậy, thích hợp cho công việc và lợi ích quốc gia, chớ không phải vì
kỳ thị tôn giáo…( Sau 1975, Cộng sản Việt Nam đàn áp tôn giáo, kìm kẹp
kẻ đối lập, áp bức dân chúng gấp triệu lần Ông Diệm, mà sao chưa thấy
biểu tình, chống đối để lật đổ chính quyền ? Hay nhỉ ! Chẳng lẽ cộng
sản nó tài, nó giỏi ! ). Sự
rối loạn càng bùng lên dữ đội và lan mạnh tới các thành phố lớn rồi di
chuyển trung tâm đấu tranh chống chính phủ về ngay tại Thủ Ðô Sài Gòn,
nơi tập trung các cơ quan quyền lực quốc gia, các Toà Ðại Sứ ngoại
quốc, cũng như các cơ sở truyền thông quốc tế. Tại đây, Thượng Toạ
Thích Trí Quang, một trong những vị lãnh đạo cao cấp Phật Giáo, gốc
người Bắc Việt, 2 lần bị Pháp bắt vì tình nghi có liên lạc với Việt
Minh ( cộng sản ) được dư luận coi là một nhân vật tôn giáo đặc biệt
trong hoạt động chính trị, đứng ra phát động và lãnh đạo cuộc đấu tranh
cuả dân chúng. Thượng Toạ thông báo cho phiá Mỹ biết là người Mỹ phải
chịu trách nhiệm về những hoạt động cuả chính quyền Sài Gòn do Mỹ ủng
hộ… ( Thich Tri Quang, a politically sophisticated monk of North
Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh
connections, stirs the people against Diem and informs US officials,
whom he holds responsible for Diem because of US support…). Sau này,
người ta mới biết Phòng Nhì ( 2ème Bureau ) của Pháp đã theo dõi không
sai, và biết rõ sự liên hệ chặt chẽ của nhân vật này với cộng sản Việt
nam từ năm 1946 trở đi... Ngày 7 - 6 - 1963:
Bà Ngô Ðình Nhu lên tiếng tố cáo trước dư luận là người Mỹ đã cố tình
nhúng tay vào, tạo nên vụ biến động này và thúc đẩy cho ngày một thêm
trầm trọng, phức tạp thêm, nhằm khuynh đảo chính quyền cuả Tổng Thống
Diệm vì Tổng Thống Diệm cương quyết không chấp nhận chính sách can
thiệp chính trị và quân sự cuả người Mỹ, là chính sách đi ngược lại ý
nguyện và quyền lợi cuả dân chúng Nam Việt Nam . Ngày 11 – 6 –1963
: Thượng Toạ Thích Quảng Ðức tự thiêu ngay tại trung tâm thủ đô Sài
Gòn, để phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo cuả chính phủ. Dư luận dân
chúng trong nước và thế giới bị xúc động mạnh. Báo chí trong và ngoài
nước, các cơ quan truyền thông khác, nhất là tại Mỹ ( đã bị lâm trận
hoả mù cuả bọn Lobbyists nói ở trên ) khai thác tối đa vụ này theo
chiều hướng “ Phải thay thế ngay người lãnh đạo chính quyền Nam Việt
Nam “. Ðang cơn dầu sôi lưả bỏng như thế thì Bà Ngô Ðình Nhu, vì
tức giận người Mỹ và lực lượng đấu tranh nên đã nóng giận, mất sự khôn
ngoan, bình tĩnh cần thiết trước tình thế bất lợi cho chính phủ. Bà Nhu
lên tiếng mạt sát, thoá mạ cuộc tự thiêu cuả Thượng Toạ Quảng Ðức.
Thật là “ Lửa đã đỏ lại đổ thêm dầu “. Ðiều này làm cho dư luận dân
chúng thêm phẫn nộ , nghiêng hẳn về phiá lực lượng đấu tranh chống
chính phủ. Ngày 27 – 6 –1963
: Thấy tình hình Sài Gòn rối loạn, khó gỡ được ra, Tổng Thống Hoa Kỳ
John F. Kennedy bổ nhiệm Ông Henry Cabot Lodge, thuộc Ðảng Cộng Hoà,
sang Sài Gòn giữ chức vụ Ðại Sứ Hoa Kỳ, thay thế cho Ðại Sứ Nolting ,
người đang tỏ ra bất lực trong việc gỡ rối cho tình hình Sài Gòn theo
chiều hướng có lợi cho chính sách cuả Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Thực tâm
Tổng Thống Kennedy là chỉ gỡ rối sao cho êm đẹp, thuận lợi cho đường
lối, chính sách cuả Hoa Kỳ, cuả Ông Kennedy, chớ Ông Kennedy lúc này
không hề nghĩ đến việc lật đổ Ông Diệm, nhất là không bao giờ nghĩ đến
việc phải giết Ông Diệm. Ông Cabot Lodge được giới chính trị và truyền
thông Hoa Kỳ coi là “ Một con cáo già chính trị “ và đồng thời là một “
Chuyên viên đảo chánh”, và hiện đang theo đuổi một chính sách mang tính
cách “ Diều hâu “ khác hẳn với Ông Kennedy về vấn đề Việt Nam . Một
Cabot Lodge, cáo già chính trị, chuyên viên đảo chánh, không cùng 1
Ðảng với Ông Kennedy, thuộc Ðảng Cộng Hoa,ø có nhiều liên hệ với quyền
lợi cuả bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh, mà sang làm Ðại Sứ Mỹ tại
Sài Gòn thì tình hình sẽ ra sao ? Cabot Lodge được cử sang Sài Gòn với
nhiệm vụ “ gỡ rối – Untangling “ tình hình, nhưng Cabot Lodge lại quyết
định chọn “ phương cách gỡ rối “ bằng một “ Cuộc đảo chánh – Coup
d’état “ êm ái, nhẹ nhàng, không chọc giận Ông Kennedy, sinh trưởng
trong 1 gia đình theo đạo Thiên Chuá, nghiã là chỉ cần đẩy Ông Diệm ra
khỏi ngôi vị lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam, đưa Ông Diệm đi sống
lưu vong ở một quốc gia nào đó nằm trong “ Quỹ đạo chính trị –
Political circle “ cuả Hoa Kỳ, như Ðài Loan, Thái Lan chẳng hạn là đủ
rồi. Sau đó, Cabot Lodge sẽ dựng lên một thứ chính quyền mới hoàn toàn
biết vâng phục theo ý muốn cuả Hoa Kỳ, hay đúng ra trong lúc này, là ý
muốn cuả “ Giới tài phiệt – Financial Oligarchy “ cuả Mỹ
đang tính chuyện kiếm lời thật lớn lao trong cuộc chiến tranh đang xẩy
ra trên đất nước Việt nam nhỏ bé nhưng đầy đau khổ, máu xương và nước
mắt này…
*
Ðó
! Câu trả lời cho cái đầu đề cuả bài viết này “ Tại sao có cuộc đảo
chánh lật đổ Ông Ngô Ðình Diệm ? “ tưởng đã đủ rõ ràng, khả dĩ góp phần
nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ 1 trang lịch sử cận đại cuả một đất nước,
một dân tộc anh hùng, nhưng quá bé nhỏ trước nanh vuốt cuả một bầy thú
dữ khổng lồ... San Diego, California Phan Ðức Minh Tài liệu tham khảo : * The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press – Missouri, 1978. * The World Almanac of The Vietnam War.- John S. Bowman ( General Editor ) .- Bison Books Corp.- New York,1985. * Vietnam : The History & The Tactics .- Ahsley Brown & Adrian Gilbert .- Orbis Publishing Limited .- London,1982. . * The Final Days .- Bob Woodward & Carl Bernstein.- The Hearst Corporation.- New York, 1976. * Kennedy .- Theodore Sorensen.- Harper & Row.- New York, 1965.- * A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan .- Scholastic Incorporation.- New York,1984.
|