Bùi Tín
Quan hệ Việt - Trung từ xa xưa đến nay luôn có ý nghĩa chiến lược mang tính chất quyết định đối với đất nước ta.
Cứ
khi nào chính quyền ta có lập trường tự chủ tự cường, đoàn kết dân tộc,
trên dưới một lòng, thì nền độc lập được giữ vững, đất nước phát triển
thuận hoà, mọi âm mưu xâm lấn bị đẩy lùi.
Hiện nay tình hình không được như thế; còn rất đáng lo ngại.
* Mong ông Phụng trả lời.
Mới đây, ông Lê Công Phụng nguyên là Trưởng ban biên giới, tham gia đàm
phán với phía Trung quốc 2 Hiệp định về biên giới trên bộ và ranh giới
trên biển, hiện là đại sứ ở Mỹ, đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Lý
Kiến Trúc của báo Văn hoá ở Nam Cali. Ý định của ông Phụng là sua tan
những nghi ngờ rằng phía Việt nam đã nhân nhượng rất nhiều, thanh minh
rằng kết quả đàm phán là công bằng, hợp lý. Tôi muốn đặt ra với ông
Phụng vài câu hỏi. Mong ông trả lời ngay thật, vì chỉ có sự thật mới
thuyết phục được đông đảo người Việt quan tâm đến vấn đề này.
- Vì sao từ khi đàm phán năm 1992 đến khi kết thúc, chính quyền trong nước không thông báo cho nhân dân
biết, cũng không báo cáo cho Quốc hội hay Uỷ ban thường vụ quốc hội
biết, khác hẳn khi thương lượng với Mỹ từ 1968 đến 1973, luôn thông báo
công khai tiến triển và chủ đề từng kỳ họp? Có điều gì khuất tất phải
giữ kín. Sao không tận dụng sự hỗ trợ của dư luận?
- Khi đưa ra quốc hội Bản hiệp định trên bộ ngày 9-6-2000, không có chất vấn và thảo luận; qua loa hình thức đối với Hiệp định quan trọng như thế, vì sao?
- Tại sao tập bản đồ tỷ lệ 1/25.000 đi kèm, coi như nội dung cấu thành Hiệp định năm 1999, không được đưa công khai ? sao dấu kỹ thế?
- Sách Trắng
bộ ngoại giao năm 1979 lên án nhiều thủ đoạn xâm lấn trắng trợn và tinh
vi của phía Trung quốc, phía Việt nam có giữ những ý kiến ấy không ?
hay đã tự rút bỏ ?
- Vì sao cả 2 bản hiệp định đều ký vào những ngày cuối năm
(ngày 30 và 25 tháng 12), rõ ràng theo ý kiến của Giang Trạch Dân:
''lãnh đạo 2 đảng đã thoả thuận ký trước khi năm 1999 (và sau đó là năm
2000) kết thúc". Có ai đi thương lượng lại bị đối phương ép về thời hạn để bị động đến như vậy ?
- Một chuyên gia quốc tế về biển cho rằng phía Việt nam hớ to khi ký hiệp định biến giới trên biển, vì đó là Vịnh Bắc bộ của Việt nam (golfe du Tonkin), lẽ ra phía VN phải được ít ra là 2/3, hay 3/4,
vì các yếu tố cấu thành Vịnh. Số dân sống quanh Vịnh : Việt nam gấp 4
lần Trung quốc; số đảo và đường ven biển : Việt nam gấp hàng trăm lần
Trung quốc; số sông đổ lượng nước và phù sa để tham gia hình thành Vịnh
: Việt nam có gấp hơn 10 lần Trung quốc...
- ông Phụng cho rằng Trung quốc là nước láng giềng lớn mạnh, "ta phải biết sống với họ", nghĩa là nhún nhường, biết điều ... Thưa rằng đó chỉ là một mặt thôi, là mặt chiến thuật thôi! Mặt chính là Việt nam phải mạnh lên toàn diện, về chính trị - tinh thần - kinh tế - quân sự - văn hoá - ngoại giao, phải đoàn kết toàn dân, cố kết dân tộc, ý chí vững mạnh về chủ quyền, đó mới là cơ sở của mọi cuộc đàm phán. Ông Phụng có vẻ quên mặt này.
* Từ đối đầu chuyển sang liên minh
: Xưa nay Trung quốc luôn tự coi mình là trung tâm của thế giới. Hiện
nay đảng Cộng sản Trung quốc có tham vọng xây dựng Trung quốc thành
siêu cường thống trị thế giới về mọi mặt trong một tương lai gần.
Với
tham vọng ấy, Trung quốc luôn mong muốn Việt nam là một chư hầu của
mình. Qua những thăng trầm của lịch sử, họ hiểu rất rõ là Việt nam là
một dân tộc rất đáng gờm, rất đáng nể, từng giáng trả họ những đòn kinh
hoàng.
Biện pháp thâm độc nhất, có hiệu quả nhất là tạo nên ở Việt nam một chính quyền phụ thuộc, dễ bảo, có hình thức dân tộc nhưng thực chất là chư hầu cho thiên triều ở Bắc Kinh.
Ở
phía Nam, Trung quốc từng xây dựng được một nhóm chư hầu trung thành là
bọn Khơme Đỏ ở Cambốt, nhóm này đã bị đánh đổ đầu năm 1979, khiến Đặng
Tiểu Bình phát điên lên và kéo đại quân vào đánh phá 6 tỉnh cực bắc
Việt nam trong tháng 2 và tháng 3-1979, nhằm đỡ đòn cho bọn chư hầu,
đồng thời dạy cho Việt nam một bài học, ra oai với nhóm lãnh đạo ở Hà nội để lôi kéo nhóm này vào vòng kiểm toả của họ.
Đến
năm 1990, sau khi phe Xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô có nguy cơ tan
vỡ, đảng CS Trung quốc cô lập và nao núng, liền tìm kiếm khẩn cấp sự
hoà giải với Việt nam để chống chọi với tình thế nguy ngập. Đảng CS
Việt nam đang chuẩn bị Dại hội VII cũng ở trong thế hoang mang khi phe
XHCN tan rã, liền sớm lao vào con đường bình thường hoá và kết nghĩa Việt - Trung,
mở đầu bằng cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô (Tứ Xuyên) vào tháng 9-1990.
Phía Việt nam có 3 nhân vật là: Nguyễn Văn Linh rất non về đối ngoại,
Phạm Văn Đồng già ốm lòa mắt, chuyên 3 phải, và Đỗ Mười mưu thâm, nhiều
tham vọng cá nhân. Thế là Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Lý Bằng
chấm ngay Đỗ Mười làm kẻ thân tín của thiên triều; sau
đó, tháng 6-1991, Đại hội VII cử Đỗ Mười làm tổng bí thư thay Nguyễn
Văn Linh; Đỗ Mười đưa ngay Lê Đức Anh làm nhân vật số 2 của đảng, nhận
chức chủ tịch nước, thay Võ Chí Công. Ngay sau Đại hội VII, '' đoàn đại biểu đặc biệt của đảng CS Việt nam " gồm 2 người là Mười và Anh
được mời sang Bắc kinh, được Giang Trạch Dân và Lý Bằng tiếp ngày
28-7-1991. Sau đó, việc bình thường hoá được ký kết tại Bắc kinh ngày
5-11-1991. Từ đó, liên minh 2 đảng CS Trung-Việt được thắt chặt, cho đến tận bây giờ. Hai Hiệp định Việt - Trung được đàm phán, ký kết chóng vánh trong hoàn cảnh này.
* Không có 2 phe trong bộ chính trị:
Gần
đây, trong một số bài bình luận chính trị có nhận định rằng hiện nay
nhóm lãnh đạo 14 nhân vật trong bộ chính trị phân hoá thành 2 phe đối
lập nhau : phe đổi mới, cấp tiến (!) và phe giáo điều, bảo thủ.
Người có nhận định trên đây có thể nghĩ rằng đời sống chính trị ở Việt nam cũng giống như ở các nước dân chủ phương Tây, kiểu đa nguyên chính trị, nghĩa là cùng tồn tại nhiều xu hướng, phe phái khác nhau.
Cần nhận rõ bàn tay Đại hán của cộng sản Bắc kinh thọc rất sâu vào Việt nam và lũng đoạn rất sâu vào đời sống chính trị Việt nam.
Trong
thời chiến tranh, khi lãnh đạo có ý định đi dây, đứng giữa Liên xô và
Trung quốc nhằm tranh thủ sự chi viện của cả 2 ông anh - anh Cả và anh
Hai - thì Trung quốc luôn lôi kéo Việt nam ngả hẳn về một bên, theo khẩu hiệu " nhất biên đảo " (di p'ian tảo ).
Từ
năm1991, đại sứ quán Trung quốc trên đường Hoàng Diệu, quận Ba đình
Hànội, với viên đại sứ hiện nay là Hồ Càn Văn (năm 1991 là bí thư thứ
nhất, rồi tham tán, nói tiếng Việt không khác gì người Việt) là một
trung tâm chính trị đầy quyền lực ở Hà nội. Từ lâu đã có đường điện
thoại đặc biệt nối Ba đình với Trung Nam Hải.
Mọi
người đều biết năm 1991 uỷ viên bộ chính trị Nguyễn Cơ Thạch đã bị loại
khỏi bộ chính trị, mất chức bộ trưởng ngoại giao, là do yêu cầu của
phía Trung quốc, chỉ vì ông Thạch có ý kiến cân bằng quan hệ giữa Trung quốc và Hoa kỳ, trái với ý muốn "nhất biên đảo " của thiên triều (Hồi ký của Trần Quang Cơ).
Ông
Nguyễn Cơ Thạch - được coi là con dê tế thần phương Bắc - cay đắng thốt
lên rằng :" kiểu bình thường hoá Việt - Trung tháng 11-1991 là khởi đầu
của một thời kỳ phụ thuộc mới - một thời kỳ Bắc thuộc mới ". Ai oán chưa !
Việc cử nhân sự lãnh đạo cộng sản luôn theo nếp lựa chọn từ trên xuống dưới, cấp trên chọn kỹ cấp dưới theo hình ảnh của chính mình, không mảy may tính đến ý kiến từ bên dưới, nên bộ chính trị thường nhất trí về đường lối.
Còn
xu hướng thân phương Tây, thân Mỹ ư ? Xin nhớ rằng sau đại hội VII một
đội ngũ báo cáo viên của đảng toả đi khắp các tỉnh thành gỉải thích kỹ
rằng chủ trương "kết bạn với tất cả các nước" phải được hiểu rằng có 5
nấc bạn khác nhau; bạn số 1 là Trung quốc, Cuba... cùng chung chế độ, ý thức hệ, bản chất cộng sản; cho đến bạn loại 5, cuối cùng, là Hoa kỳ, - "vừa bạn, vừa thù", rất nguy hiểm, đang nuôi ý đồ lật đổ theo kiểu diễn biến hoà bình, dù rằng Hoa kỳ vì động cơ lợi nhuận sẽ đầu tư ngày càng nhiều vào nước ta.
Cho
nên có thể nhận định cả 14 vị trong bộ chính trị hiện đều chung một lập
trường "nhất biên đảo", chỉ khác ở chỗ đậm nhạt đôi chút, bất đồng ở
những điểm thứ yếu, trên những vấn đề khác, không phải về đường lối đối
ngoại.
* Thế là phái đổi mới, tiến bộ ư ?:
Sự thật là 14 nhân vật ấy đều nhất trí sâu sắc trong đường lối Bắc thuộc mới.
Xin hãy quan sát kỹ. Chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng tháng 4 -2007
sang Bắc kinh, khi gặp chủ tịch quốc hội Ngô Bang Quốc, ông này lên mặt
ta đây, cao giọng căn dặn rằng:" 2 bên cần giải quyết ổn thoả vấn đề
biên giới lãnh thổ, cùng nhau giữ gìn ổn định của vùng biển Nam Trung
quốc (!)". Não trạng và khẩu khí ngạo mạn của một viên thái thú. Thế mà
Nguyễn Phú Trọng vẫn nhăn nhở cười nịnh. Chưa hết, cũng
ngày hôm ấy, người phát ngôn bộ ngoại giao Tàu là Tần Cương tố cáo việc
Việt nam khai thác dầu trong vùng hải phận ta, coi đó là vi phạm lãnh
hải Trung quốc (!), rồi trịch thượng lên giọng " Trung quốc bày tỏ hết
sức quan tâm việc này và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt nam ". Cũng năm ngoái, trước khi sang Hoa kỳ, Nguyễn Minh Triết
đã "bị mời" vội sang Bắc kinh (không có dự định trước) để được răn đe
trước là không được đi quá xa trong quan hệ với Hoa kỳ. Còn ngoại
trưởng Phạm Gia Khiêm bao giờ gặp Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia
Bảo cũng không quên ôm chặt, bắt tay lắc đi lắc lại 3 lần và không quên
2 chữ " đồng chí "(!). Phía Trung quốc luôn tỏ nhiệt tình đặc biệt với
Nông Đức Mạnh và Hồ Đức Việt, coi như
người nhà, vì Mạnh tuy uy tín không còn, nhưng còn uy lực của tổng bí
thư, còn Việt nắm vấn đề nhân sự trên cương vị trưởng ban tổ chức trung
ương đảng, được giao việc canh gác kỹ để không một ai có tinh thần
chống bành trướng bá quyền phương Bắc có thể lọt vào trung ương.
Còn ông Nguyễn Tấn Dũng
? ông là nhà cải cách? người chủ trương đổi mới? vị thủ tướng kiên
quyết chống tham nhũng? đứng đầu phái cởi mở, đổi mới trong bộ chính
trị chăng ? ông Dũng muốn giữ khoảng cách với Bắc kinh và sáp lại gần
Hoa kỳ ? Có đúng như vậy không ?
Xin chớ phạm sai lầm. Xin chớ lầm lẫn bản chất với thủ đoạn, mưu mẹo, chớ lẫn lộn chiến lược với chiến thuật của họ.
Sống dưới chế độ cộng sản, cần luôn luôn tỉnh táo, ''nghe nói vậy mà không phải vậy"; ông Dũng thề thốt đi đầu chống tham nhũng,
như chống giặc; đứng đầu bộ máy chống tham nhũng, leo lẻo "không trừ
một ai, ở bất cứ cấp nào"; ông còn kể ra 10 vụ tham nhũng lớn nhất sẽ
ưu tiên xét xử, đầu tiên là Vụ PMU18. Đến nay, sau hơn 2 năm, những vụ
án trên còn lây bây, nhùng nhằng ra sao, lại còn lật án nữa. Ai chỉ
chống tham nhũng bằng lưỡi ?
Ông Dũng công khai nói như một tuyên ngôn : "tôi kiên quyết cấm không cho tư nhân làm báo ", công khai nói ngược với Hiến pháp [ điều 69:
công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông
tin, lập hội, biểu tình theo qui định của pháp luật ]. Ông Dũng không
những miệt thị hơn 10 ngàn nhà báo Việt nam, còn xúc phạm hơn 1 triệu
nhà báo toàn thế giới. Vì không có một nghề nào tự do hơn, mang tính tư
nhân hơn là nghề làm báo; mỗi bài báo mang tên người viết ở dưới là một
sản phẩm cá nhân độc đáo không thể là của một ai khác. Ông Dũng nói
ngược những điều ấy, thế là tiến bộ, là cởi mở ư ? Chưa hết, việc đàn áp bằng bạo lực các nhà dân chủ,
trừng phạt những nhà báo, sinh viên biểu tình trước Sứ quán và lãnh sự
quán Tàu, chính ông Dũng ra lệnh và thúc đẩy là chính, chứ còn ai? Mới
đây thôi, ông vẫn lên án Giám mục Ngô Quang Kiệt "có lời nói xúc phạm
đất nước mình" [ khi nói rằng: chúng tôi cảm thấy nhục nhã khi cầm hộ
chiếu Việt nam ]; báo chí trong và ngoài nước đã lật tẩy cái trò thấp
hèn cắt cụt câu nói của Giám mục Kiệt, khi giám mục nói rõ ý rằng: ngài
mong nước Việt Nam đoàn kết, mạnh, có uy tín để ta đi lại tự do như dân
Nhật, dân Đại hàn, không bị soi mói khi ra nước ngoài cầm hộ chiếu Việt
nam. Thế là ông thủ tướng tự tỏ ra không ngay thật (cắt xén, ăn gian), còn tỏ ra cố chấp
(không biết phục thiện), còn hớ to khi xã hội đã biết chuyện. Còn những
việc: mở Nghĩa trang Biên hoà, lập đàn Giải oan, cho giải thưởng các
nạn nhân vụ Nhân văn, đưa Giỗ tổ Hùng vương thành Quốc lễ, thăm La
mã... đều là nghị quyết nhất trí của bộ chính trị, sau những tính toán hơn thiệt chung.
* So sánh với quan hệ Việt - Mỹ: Có thể khẳng định rằng cả 14 nhân vật trong Bộ chính trị đều ngả theo Bắc kinh, gắn chặt với Bắc kinh, vì họ vẫn giữ một não trạng hằn sâu
trong óc từ gần 20 năm nay sau khi bức tường Berlin đổ sập, Liên Xô tan
rã, phe Xã hội chủ nghĩa tan tành. Họ coi thảm hoạ ấy là do các nước
phương Tây, trước hết là Hoa kỳ, câu kết với bọn cơ hội hữu khuynh ở
trong các đảng cộng sản, gây nên.
Mở
cửa, hội nhập, làm bạn với mọi nước... chỉ là những chủ trương bắt
buộc, miễn cưỡng, chẳng thể đặng đừng, do đất nước ở trong thế bị cô
lập, nghèo đói cùng cực, có nguy cơ tan rã, cần gấp những khoản đầu tư
cực lớn, không có lối thoát nào khác.
Họ hiểu rằng công luận xã hội sẽ bị tự do và dân chủ tấn công và mê hoặc (theo lối nghĩ của họ), nhưng họ sẽ cố kiềm chế,
trì hoãn quá trình chết người (đối với họ) ấy, càng kéo dài chế độ độc
đảng càng tốt để tận lực vơ và vét, tha hồ chia chác tiền của của công
và nhà đất tài sản của xã hội, truyền lại cho con, cháu, để hạ cánh an
toàn, trên "cánh dù vàng", theo cách nói ở phương Tây.
Cho
nên những chuyến đi thăm các nước phương Tây, những lời hứa xây dựng
chế độ pháp quyền, cải cách hành chính mạnh mẽ, tôn trọng tự do tôn
giáo, tôn trọng dân quyền ... chỉ là những việc làm nửa vời, lời hứa,
câu hẹn mang tính chiến thuật, có ý nghĩa lơ lửng, nói để nói, nói rồi
quên ngay, chỉ đánh lừa được những người nhẹ dạ.
Ngay cả những mối "quan hệ chiến lược", "hợp tác an ninh, quân sự Mỹ - Việt",
nghe tưởng là ghê gớm, cũng chỉ mới chớm ở trong việc trao đổi thông
tin về chống khủng bố, huấn luyện và hợp tác trong cứu hộ tàu thuyền,
huấn luyện quân y và ngoại ngữ cho một số sỹ quan, còn khác xa, rất xa, khác về chất với quan hệ hợp tác toàn diện Trung - Việt giữa 2 nước, 2 đảng, 2 bộ chính trị, vừa là đồng chí vừa là anh em.
Xin nhớ nhóm lãnh đạo cộng sản Trung quốc luôn có tư tưởng nước lớn, đàn anh, theo bản chất Đại Hán
đối với các nước nhỏ xung quanh họ. Họ ép Việt nam phải đi theo con
đường của họ, không mảy may được chệnh hướng, lại phải lẽo đẽo đi sau
họ, không được phép vượt lên trước. Họ đổi mới trước ta 8 năm, bình
thường hoá với Mỹ trước nữa, vào WTO cũng sớm hơn, cố buộc ta lẽo đẽo sau xa để phụ thuộc lâu dài.
Về
nhân sự, từ năm 1990 đến nay, họ không thể cho phép trong bộ chính trị
14 người ở Việt nam có một ai đó chống lại họ hay giữ một khoảng cách
đối với họ, huống hồ ở các vị trí then chốt là chủ tịch nước và thủ
tướng.
Họ
không chỉ có toà nhà Đại sứ quán với đại sứ Hồ Càn Văn đầy uy thế, với
hệ thống tình báo và cộng tác viên dày đặc về chính trị, kinh tế, quân
sự, văn hóa, họ còn 2 nhân vật chí cốt Đỗ Mười và Lê Đức Anh tuy tuổi cao sức yếu nhưng vẫn còn quyền uy, lại còn Tổng cục 2 đầy tiền và lắm thủ đoạn thâm hiểm đang kết nghĩa bền chặt với Cục tình báo Hoa Nam.
Ông
Nguyễn Tấn Dũng sắp thăm Trung quốc ngày 20-10, cho tới 25-10. Ông ta
không thể quên 16 chữ vàng (giả ?), và ca ngợi cái tình sâu nghĩa nặng "láng giềng tốt, bè bạn tốt, đồng chí tốt và đối tác tốt"
( tốt cho ai ?). Hồ Cẩm Đào sẽ không quên khen Nguyễn Tấn Dũng về 2 món
quà qúi : chiến công dẹp giáo dân và trị các nhà báo về "tội " quá hăng
hái chống tham nhũng.
Đối
với những kẻ yếu bóng vía, chịu thân phận phiên thuộc, bọn quan chức
đại Hán thích trò chơi trội, cố tình làm nhục nữa khi cần. Họ không nể
ai hết. Họ chỉ biết sợ cái quắc mắt của Trần Bình Trọng, hiện quá hiếm.
Lôi kéo, mua chuộc, đe doạ
là thủ đoạn quen thuộc của họ. Họ vừa cho phổ biến ầm ĩ những bài luận
văn dài, sặc mùi đe doạ chiến tranh, đòi đánh phủ đầu, "thảo phạt "
Việt nam, dạy cho Việt nam một bài học nữa...
Rất
có thể ông Dũng sẽ được thông báo tin "mừng" (!) việc đặt hơn 2.000 cột
mốc dọc biên giới Việt - Trung dài 1400 km đã hoàn thành, với bản đồ tỷ
lệ 1/5.000 được xác định chính thức, để 2 bên cùng phổ biến công khai,
rộng rãi. Bắc kinh mừng to vì đã ngoạm được những giải đất biên giới
rộng lớn, để thừa thắng chiếm luôn các quần đảo họ vẫn một mực nhận vơ
là của họ.
Đại yến Bắc Kinh đãi các "đồng chí phương Nam" thường có món súp đắng.
* Con đường bứt phá trong danh dự
Con
đường Bắc thuộc là con đường tối tăm ô nhục, bế tắc. Cuộc Bắc thuộc mới
kéo dài 18 năm rồi. Quá đủ ! Người dân thường cũng nhìn thấy.
Nhiều người còn nhớ trước Đại hội X, bộ chính trị đã thành lập một Ban kiểm tra liên ngành
gồm các đại diện của Ban kiểm tra trung ương, Viện kiểm tra tối cao,
Toà án nhân dân tối cao, Ban tổ chức trung ương, Ban bảo vệ chính trị
trung ương, Ban nội chính trung ương, Tổng thanh tra chính phủ, bộ công
an, bộ quốc phòng, bộ tư pháp nhằm điều tra đầy đủ về Tổng cục 2 (quân báo, tình báo, gián điệp và phản gián) trực thuộc bộ quốc phòng.
Lẽ
ra bản báo cáo (được biết là dày 200 trang với nhiều hồ sơ - 3000
trang- kèm theo) phải được đưa trình cuộc họp ban chấp hành trung ương
tháng 4-2006 như đã định, sau đó báo cáo Đại hội X. Nhưng tổng bí thư
Nông Đức Mạnh đã đột nhiên nhân danh bộ chính trị, yêu cầu Ban chấp
hành trung ương quyết nghị giao cho bộ chính trị nghe báo cáo và giải quyết
(!) , coi như xong, vì bản báo cáo có nhiều vấn đề hệ trọng, đưa ra
trung ương và đại hội thì lộ ra hết. Đây là chuyện chưa từng có.[ nhiều
khả năng là do phía Trung quốc giật dây, vì điểm bùng nổ lớn nhất của
bản báo cáo là bàn tay Bắc Kinh thọc quá sâu vào nội bộ Việt nam ]. Tập
thể Ban chấp hành trung ương, về nguyên tắc là cấp cao hơn bộ chính
trị, đã bị tổng bí thư xỏ mũi dắt đi, tự mình từ nhiệm nghĩa vụ và trách nhiệm của chính mình, đầu hàng một nhóm lãnh đạo khi nhóm này sắp hết nhiệm kỳ, để cho Vụ án siêu nghiêm trọng về Tổng cục II
- theo cách gọi của nhiều cán bộ cộng sản kỳ cựu - rơi tõm vào hư
không. Nhưng rồi trước sau món nợ này sẽ phải trả. Ông Mạnh được mang
tên là ''Anh Hai Khoanh''! Còn Khoanh lại không để thảo
luận về quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân dù cho đảng đã buộc phải
trả lại quyền sở hữu tư nhân cho tư sản thương nghiệp và tư sản công
nghiệp. Khoanh lại, trong đảng không ai được kiến nghị đổi tên đảng, đổi tên nước. Khoanh lại, không bàn về cho tư nhân làm báo, dù cho đi ngược với các văn kiện pháp lý quốc tế Việt nam đã cam kết tôn trọng. Khoanh lại, kiểm soát chặt các bloggers phần lớn là tuổi trẻ năng động, bén nhạy với tư duy cởi mở thông thoáng.
Hiện
nay trình độ dân trí đã cao hơn "đảng trí", "quan trí" và "bộ chính trị
trí". Cứ làm một cuộc tham dò dư luận hay trưng cầu dân ý sẽ rõ. Ngay
trong đảng cộng sản, nhiều đảng viên thường, ở cơ sở, tinh thần yêu
nước, tự chủ cũng vượt xa nhóm lãnh đạo chóp bu tham lam mù quáng, nhu
nhược.
Ông
Lê Công Phụng cần đọc kỹ lịch sử dân tộc. Nước ta, khi nào có Minh
Quân, Vua có tài đức, hệ thống cai trị liêm chính, tuyển nhân tài công
bình, xã hội thịnh trị, quân dân nhất trí nhận rõ mặt kẻ thù ngoại xâm,
ắt tri tài công bình, xã hô Tài D bờ cõi vững an ninh, dù có chiến
tranh thế giặc hung hãn đến mấy cũng bị đập tan.
Còn
như chính quyền thối nát, cường hào hoành hành, bất công lan rộng, dân
oan kêu la khắp nơi, lãnh đạo khiếp nhược tự nguyện là phiên thuộc, thì
đất nước tuy còn đó mà đã như mất rồi vậy. Dân không thể cam chịu.
Chỉ có một đường thoát. Chỉ có một con đường danh dự. Nung nấu tinh thần quật khởi tự chủ của dân tộc, gìn giữ từng tấc đất tấc biển, tấc đảo của Tổ quốc, đi với thời đại, xây dựng nền móng dân chủ đa nguyên đa đảng
vững chãi, với nếp xưa lấy dân làm gốc, lấy lá phiếu công dân từ cơ sở
mà bàu lên bộ máy lãnh đạo trong sạch và sáng suốt, vượt lên trước nước
láng giềng lớn nặng nề cổ hủ về chính trị.
Chớ bao giờ coi phải sống bên nước lớn là định mệnh nghiệt ngã. Ấn độ, Mông cổ vẫn sống tự chủ, độc lập bên cạnh anh khổng lồ đấy chứ.
Đảo nhỏ Đài Loan tự chủ vững, vẫn liên minh bền chặt về quân sự với Hoa kỳ, còn là tấm gương dân chủ đa đảng cho Hoa lục.
Hãy vẫy gọi nhau, hãy khoác vai nhau, hãy thông tin cho nhau, bàn bạc
với nhau, hãy thức tỉnh nhau, 2 thành 4, 4 thành 8, 8 thành 16 ....bình
tĩnh, ôn tồn, không mệt mỏi, không bỏ cuộc, không nản lòng ... Bồi
dưỡng cho nhau tinh thần Tự chủ Tự cường; gắn trọn vẹn với Thế giới Dân chủ.
Thế
mới là Đổi mới, là Đi với Thời Đại, là Đột phá, là Tư duy Chiến lược,
Tư duy Mở, là Canh tân hệ thống chính trị vì Dân, vì Nước.
Sự
nghiệp dân chủ hoá cao quý rất đáng được các bạn trẻ dấn thân thực
hiện. Hãy đồng loạt thức tỉnh, như Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài,
như Phạm Thanh Nghiêm, Dương Thị Xuân, như Hà Đông Xuân, Trần Hiền
Thảo, như Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Hoàng Lan, như Song Chi và Võ Thị
Hảo, như Nguyễn Tiến Nam, Lê Thanh Tùng, Hoàng Hải (Điếu Cày) và biết
bao nhiêu tấm lòng khí khái, tự chủ đang dấn thân cho tự do của dân
mình.
Ý chí tự chủ tự cường truyền thống được chắp đôi cánh tự do dân chủ
của thời đại, sẽ đưa dân tộc ta vượt qua nỗi khổ nhục của thời phụ
thuộc, băng mình lên phía trước, bay cao vươn xa đến những bến bờ văn
minh mới.
Bùi Tín
Paris 18-10-2008.
|