Giáo sư Tiến
sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN http://vietTUDAN.net/11604/index.html
Đơn
vị tạo phát triển Kinh tế Quốc gia đồng
thời tạo công ăn việc làm cho nhân lực là những
Công ty, nhỏ hay lớn. Tại Việt Nam, những Tập
đoàn Kinh tế lớn nằm trong tay Nhà Nước. Một
số những Công ty nhỏ hay trung bình có nằm trong tay tư
doanh đi nữa, thì cũng bị ràng buộc rất nhiều
vào những Tập đoàn Kinh tế Nhà nước nắm
những đặc quyền khai thác hay xuất nhập cảng.
Bài
QUAN ĐIỂM này muốn cho thấy sự yếu kém Năng
suất (Faible Productivité) của những Công ty quốc
doanh, nhất là lại ở dưới quyền lực độc
tài của Nhà Nước. Khi mà 80% hoạt động Kinh tế
nằm trong hệ thống quốc doanh dưới quyền
quyết định độc tài của Chính trị, thì sự
yếu kém Năng suất còn trở thành trầm trọng hơn
nữa. Hội nhập vào Thế giới Kinh tế cạnh
tranh với Năng suất yếu kém, Việt Nam khó lòng theo
kịp đà phát triển Kinh tế chung.
Bài
được trình bầy với những điểm sau đây:
=> Công ty tư bản và Năng
suất
=> Năng suất theo phương
tiện sản xuất
=> Năng suất theo lợi
nhuận kinh tế
Công ty tư bản và Năng suất
Một
Công ty tư bản được định nghĩa như
sau: “Công ty là một tổ chức, tự lập về tài
chánh, giới thiệu những sản phẩm kinh tế ở
thị trường cạnh tranh tiêu thụ để bán,
nhằm thu vào lợi nhuận tối đa“ (L’entreprise est
une organisation, financìerement autonome, qui présente au marché concurrentiel
de consommation des biens économiques en vue d’obtenir du bénéfice maximal).
Từ
định nghĩa này, chúng ta rút ra những đặc tính
căn bản sau đây của một Công ty tư bản:
=> Một TỔ CHỨC
(Organisation)
Một
tập hợp nhiều người chưa hẳn đã được
gọi là có tổ chức. Thực vậy để có thể
gọi là một tổ chức, phải tuần tự hội
đủ những việc làm:
* Xác định rõ Mục đích
dài hạn và ngắn hạn để đạt tới
(Fixer Objectifs a atteindre)
* Phân công làm việc (Diviser
des travaux)
* Điều hợp những
công tác (Coordonner des travaux).
* Kiểm soát những thực
hiện qui chiếu với mục đích (Controler des exécutions
par rapport aux objectifs)
Chính
những mục đích Kinh tế độc lập của
Công ty hướng dẫn những quyết định về
tổ chức chứ không phải những mệnh lệnh
ngoại tại, nhất là từ chính trị.
=> Tự lập về Tài chánh
( Autonomie financìere)
Muốn
có độc lập thì phải có tự lập về tài
chánh. Nếu Công ty phải hoàn toàn lệ thuộc vào tài chánh
ngân hàng, thì không thể có độc lập để quyết
định về những mục đích và ngay cả trong
việc tổ chức nhân sự trong Công ty. Nếu tài chánh
là do Nhà Nước cung cấp, thì Công ty phải theo quyết
định của Chính trị Nhà Nước. Một Công
ty tư bản luôn luôn dành ra mỗi năm một số vốn
trích từ tiền lời để tạo cho mình sự tự
lập về Tài chánh.
=> Làm việc cho Thị trường
Cạnh tranh Tiêu thụ (Marché concurrentiel de consommation)
Công
ty sản xuất hàng hóa không phải là để cất kỹ
hàng trong kho, mà là mang ra Thị trường để bán. Đây
là một Thị trường cạnh tranh, nghĩa là có nhiều
những Công ty khác cũng mang hàng tới và khách hàng tiêu thụ
có toàn quyền lựa chọn hàng hóa.
=> Những Sản phẩm
kinh tế (Biens économiques)
Công
ty không thể sản xuất bất cứ cái gì, mà là sản
xuất những hàng kinh tế. Gọi là một sản phẩm
kinh tế, phải có những điều kiện sau đây:
* Tính cách hữu dụng (Utilité):
Món hàng nhằm một sự hữu dụng nào trong việc
thỏa mạn những nhu cầu của con người
(Besoins humains)
* Tính cách hiếm hoi (Rareté): Làm
thế nào hàng của mình khác với hàng của các Công ty khác.
Tính cách hiếm hoi này làm cho món hàng có giá trị nội tại
(Valeur en soi)
* Tính cách trao đổi
(Echangeabilité): Món hàng nhằm thị hiếu để có người
muốn mua. Đây là giá trị trao đổi (Valeur d’échange)
=> Lợi nhuận tối đa
(Bénéfice maximal)
Tất
cả những đặc tính trên đây mà Công ty phải tổ
chức sản xuất cho hữu hiệu, phải có tự
lập về tài chánh để phát triển mọi khả
năng kinh tế, phải học hỏi về Thị trường
để có thể cạnh tranh, phải chi tiêu căn cơ,
đều nhằm vào mục đích tối hậu là thu vào
được LỢI NHUẬN TỐI ĐA.
Một
số nhà đạo đức, luân lý, tôn giáo hay xã hội
chủ nghĩa công kích khía cạnh này của Công ty tư bản.
Nhưng những nhà Kinh tế tư bản nói rằng họ
phải kiếm Lợi nhuận tối đa trước đã,
rồi sau đó mới có tiền, có phương tiện vật
chất để thực hiện mục đích đạo
đức, luân lý, tôn giáo hay giúp xã hội. Phải thu vào Lợi
nhuận tối đa để cho Công ty sống, để
bào đảm công ăn việc làm cho nhân lực tham dự
vào tổ chức.
Chúng
tôi trình bầy những đặc tính trên đây của một
Công ty tư bản tư doanh để xét xem Công ty quốc
doanh có thể thực hiện được những điều
kiện đặt ra cho một Công ty tư bản tư
doanh hay không.
Năng
suất (Productivité) là chỉ số đo lường tính cách
Hữu Hiệu (Efficacité) của việc xử dụng một
phương tiện sản xuất trong một đơn
vị thời gian nhất định hay đo lường
về hiệu quả tổng quát của Chi tiêu cũng
trong một thời gian nhất định. Yếu tố
thời gian rất quan trọng trong việc tính Năng suất.
Tỉ dụ công nhân A sản xuất được 5 đơn
vị hàng; nhân công B cũng sản xuất được
5 đơn vị hàng. Người ta không thể nói được
nhân công A hữu hiệu hơn nhân công B. Nhưng nếu biết
thời gian sản xuất của mỗi nhân công, tỉ dụ
nhân công A chỉ cần một ngày còn nhân công B phải mất
3 ngày, thì lúc đó chúng ta mới có thể nói rằng Năng
suất của nhân công A lớn hơn năng suất của
nhân công B.
Cũng
vậy nếu cùng một số vốn xử dụng là
1'000 đồng, ông A và ông B cùng mang lại lợi nhuận
là 100 đồng, người ta không biết ông A hữu hiệu
hơn ông B hay không. Nhưng nếu biết rằng ông A kiếm
lợi nhuận 100 đồng trong 1 tuần, còn ông B phải
mất một tháng, thì lúc ấy người ta mới nói rằng
Năng xuất xử dụng vốn của ông A lớn hơn
Năng suất xử dụng vốn của ông B.
Chúng
tôi sẽ xét về Năng suất của Công ty quốc
doanh dưới hai lãnh vực: (i) Lãnh vục sản xuất
từ những phương tiện làm việc mà Công ty xử
dụng ; (ii) Lãnh vực thu Lợi nhuận từ những
hoạt động của Công ty.
Năng suất theo phương tiện sản xuất
Các
nhà Kinh tế thường tóm tắt những phương
tiện sản xuất qua công thức dưới đây:
Q = f
( K, L, t)
Q:
Lượng sản phẩm làm ra tùy thuộc vào việc xử
dụng hai phương tiện K và L
K:
Số vốn xử dụng (Capital). Số vốn này không được
hiểu chỉ là tiền mặt, nhưng là tất cả
những phương tiện xử dụng ngoài nhân lực,
như máy móc, đồ dùng...
L:
Nhân lực xử dụng (Force de travail/ Labour). Nhân lực này
có thể là bắp thịt, có thể là đầu óc.
t: Kỹ thuật hội nhập vào
phương tiện máy móc, đồ dùng hay vào nhân lực
bằng kinh nghiệm, huấn luyện...
Một
số người muốn thêm phương tiện đất
đai (T), nhưng ngày nay phương tiện này coi như
thứ yếu.
Như
chúng tôi đã cắt nghĩa ở phần trên, khi tính Năng
suất, phải có yếu tố thời gian cho việc xử
dụng mỗi phương tiện sản xuất.
Nếu
lấy tổng lượng hàng sản xuất chia cho mỗi
phương tiện, chúng ta chỉ được sản
lượng trung bình cho mỗi đầu người hay mỗi
đơn vị vốn xử dụng, nhưng đó chưa
phải là Năng suất. Năng suất được
tính theo:
Q
------------------ = Năng
suất xử dụng vốn
K
x thời gian
Q
-------------------
= Năng suất nhân lực
L
x thời gian
Các
nhà Kinh tế đã so sánh Năng suất xử dụng nhân
lực và Năng suất xử dụng vốn giữa hai
hệ thống Kinh tế: Kinh tế Trung ương Tập
quyền/Chỉ huy và Kinh tế Tự do/Thị trường.
Ơû hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền/Chỉ
huy, Năng suất của mọi phương tiện xử
dụng sản xuất đều thấp kém đối hệ
thống Kinh tế tư doanh Tự do/Thị trường
bởi những lý do chính yếu như sau:
=> Đối với nhân lực:
* Thiếu yếu tố kích
thích làm việc. Trong những Công ty Nhà Nước, nhân lực
làm việc không có sự tự động cố gắng,
mà làm theo lệnh, theo kiểm soát. Từ đó nhân lực dễ
đi đến tình trạng lẻn lút hối lộ để
tránh né công việc. Trong những chế độ độc
tài chỉ huy Kinh tế, thay vì lợi nhuận là yếu tố
kích thích, Nhà Nước thường áp dụng những bằng
Khen Thưởng. Nhưng đây không phải là yếu tố
kích thích thực tiễn cho những nhân công cần tiền
bạc để sống. Hệ thống Kinh tế tư
nhân Tự do/Thị trường lấy tiền bạc để
kích thích thì thực tế hơn. Một người chơi
Thể thao như Tennis chẳng hạn. Khi họ thắng
thì muốn lãnh bao nhiêu tiền cho riêng họ, chứ không cần
chỉ với tấm bằng Khen Thưởng suông.
* Trong trường hợp
thiếu trách nhiện thi hành công việc, chế độ
Công ty quốc doanh xử dụng khiển trách, phạt kỷ
luật, nhưng chế độ tư doanh xử dụng
đơn giản là đuổi việc để chế
tài. Đuổi việc cũng là xử dụng trừng phạt
bằng đồng tiền mà nhân công đang muốn có.
* Ở những Công ty Nhà Nước,
nhất là trong chế độ độc tài, nhân lực
làm việc theo chỉ thị vì ngại sợ kỷ luật
trừng phạt nếu sáng kiến cá nhân có những va chạm
với cấp trên trong tổ chức. Trong hệ thống
Kinh tế tư nhân Tự do/Thị trường, nhân lực
được khuyến khích có những sáng kiến cá nhân để
kiện toàn công việc cho mau chóng. Đây là phương diện
làm cho Năng suất nhân lực mỗi ngày mỗi tăng.
=> Đối với Vốn
sử dựng:
Chúng
tôi xin nhắc lại câu nói trong Kinh tế tư nhân Tự
do/Thị trường:“Kiếm tiền đã khó, mà tiêu tiền
còn khó hơn“ (Gagner de l’argent est difficile, mais le Dépenser est encore plus difficile). Việc
chi tiêu tiền khó hơn vì trong việc chi tiêu đã phải
tính toán căn cơ để một đồng tiền
tiêu ra, phải kiếm vào lợi nhuận cao hơn., nghĩa
là việc tiêu tiền đã hàm ngụ việc kiếm tiền
rồi theo tinh thần Kinh tế Tự do/Thị trường.
Tiêu tiền theo Kinh tế không phải là quảng tiền
qua cửa sổ. Mọi người đều thích tiêu tiền
của người khác. Đối với một Công ty tư
doanh, Vốn là tư hữu của Công ty, vì vậy mà việc
xử dụng phải chắt bóp căn cơ, nhất là
phải ước tính lợi nhuận thu vào, trong khi ấy,
đối với một Công ty Nhà Nước, Vốn là do
Nhà Nước cung cấp, nên dễ chi tiêu như tiền
chùa. Nhiều trường hợp, các người trách nhiệm
Công ty quốc doanh còn tìm đủ mọi lý do không thuộc
lãnh vực làm ăn kinh tế để tiêu tiền chùa từ
Nhà Nước. Đây là tình trạng Lãng phí mà mọi người
đều công nhận tại những Tập đoàn Kinh tế
Nhà Nước Việt Nam.
Chi
tiêu không căn cơ, hoang phí làm cho Năng suất xử dụng
vốn thấp kém.
Năng suất theo lợi nhuận kinh tế
Ở
phần trên, chúng tôi phân tích Năng suất tách rời ra từng
phương tiện sản xuất được xử
dụng trong chính nội bộ của Công ty. Trong phần này,
chúng tôi phân tích Năng suất theo Lợi nhuận, nghĩa
là tổng số Chi cho mọi phương tiện sản
xuất phải được so sánh với tổng số
Thu tại Thị trường trao đổi hàng hóa với
bên ngoài để từ đó dành ra phần Lợi nhuận
hay thua Lỗ.
Mức
Lợi nhuận (hay thua Lỗ ) được tóm trong công
thức định nghĩa Kế toán như sau:
MB =
CAN - CT
MB
: Mức độ Lợi nhuận thô
CAN
= Q x Pv : Tổng số Thu thô từ
lượng hàng bán nhân với giá bán ở Thị trường CT
= Q x Cm : Tổng số Chi nhân
với lượng hàng sản xuất và bán được.
Mục
đích tối hâu của Công ty là tối đa hóa Mức độ
Lợi nhuận (Maximiser la Marge Bénéficiaire MB). Muốn cho MB càng
rộng, thì phải quản trị hai phía cùng một lúc:
(i) một mặt tìm Thị trường có giá bán cao để
bán hàng hóa; (ii) mặt khác phải giảm thiểu tối đa
Chi tiêu (Minimiser le Cout total CT). Ở một Thị trường
tự do cạnh tranh, giá bán thường cố định
do sự cạnh tranh, rất khó quản trị dù bằng
những chiến thuật Marketing tinh xảo. Chính vì vậy
mà việc quản trị Chi tiêu (Gestion des Charges) trở thành
quan trọng cho các Công ty. Ơû cùng một Thị trường
Tiêu thụ, nhưng Mức độ Lợi nhuận của
các Công ty khác nhau là do sự quản trị Chi tiêu khác nhau của
từng Công ty. Chú thích liền ở đây rằng những
Tập đoàn Kinh tế liên quốc (Multinationales) đến làm việc ở Việt
Nam hay Trung quốc là áp dụng việc quản trị Chi
tiêu, lợi dụng nhân công rẻ mạt ở những nước
này với sự độc đoán bắt ép nhân công từ
Chính quyền độc tài để có hàng hóa rẻ đem
bán ở những Thị trường với giá bán cao như
Hoa kỳ và Liên Âu.
MB
-------------------- : Năng suất xử dụng vốn
Chi cho cả nhân lực và những phương tiện khác
CT
x thời gian
Như
phần trên, chúng tôi đã trình bầy rằng Năng suất
xử dụng nhân lực và Năng suất xử dụng
Vốn cho những phương tiện khác tại những
Công ty Nhà Nước đều yếu kém, thì câu kết luận
rất rõ rệt là Năng suất Lợi nhuận đối
với Chi tiêu tổng quát tất nhiên yếu kém tại những
Công ty Nhà Nước sánh với những Công ty tư doanh Tự
do/Thị trường.
Để
kết luận tổng quát theo Chủ đề, PHẢI DỨT
BỎ CHỨ KHÔNG CHỈ CẢI CÁCH CƠ CHẾ HIỆN
HÀNH. Cơ chế hiện hành là việc chủ
trương độc tài Chính trị nắm chặt ấy
độc quyền Kinh tế cho đảng CSVN thông qua những
Tập đoàn Kinh tế Nhà Nước. Đòi hỏi dứt
bỏ CƠ CHẾ HIỆN HÀNH là một đòi hỏi thuần
túy Kinh tế nhằm tăng mọi Năng suất trong việc
phát triển Kinh tế Quốc gia vững chắc và lâu dài
vậy.
Giáo sư Tiến
sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN
|