§ Phạm Quang Trình Sự việc Dòng Đồng Công tại Thủ Đức (1987) bị nhà
cầm quyền Cộng sản Việt Nam đàn áp đến nay (2008) đã được hai chục năm.
Hai chục năm trôi qua đã có nhiều thay đổi trong cách phản ứng của Giáo
dân cũng như cách hành xử của nhà cầm quyền.
Nhưng vụ nhà Dòng
Đồng Công(1987) không phải là sự kiện đàn áp đầu tiên của nhà cầm quyền
Cộng sản Việt Nam. Nó chỉ là một những vụ đàn áp kế tiếp theo những
tính toán của Cộng sản kể từ khi họ xua quân tấn chiếm Miền Nam vào năm
1975 rồi theo từng thời kỳ qua chủ trương đánh tư sản, trong đó phải
hiểu ngầm là có các Tôn giáo. Bởi vì trước đó 10 năm (1977), sau khi xé
toang Hiệp Định Paris 17-01-1973 để thôn tính Miền Nam, và sau khi tạm
ổn định tìn hình bằng những biện pháp cấp thời lừa nhốt tất cả Sĩ quan
cùng viên chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào các trại cải tạo, đồng thời
đẩy dân thành thị ra vùng Kinh Tế Mới, Cộng Sản Việt Nam mới chính thức
ra tay đánh phá các cơ sở Tôn giáo mà điền hình là các Nhà Dòng.
Người
viết nhớ lại vào khoảng gần cuối năm 1977, các Nhà Dòng Don Bosco, An
Phong Học Viện thuộc Dòng Chúa Cứu Thế và Đa Minh Học Viện thuộc Dòng
Đa Minh, Dòng Phước Sơn ở Thủ Đức lần lượt bị Cộng sản tấn chiếm. Cái
trò lưu manh trắng trợn của Cộng sản là ban đêm lén ném vũ khí vào các
ao hồ, sân chơi hoặc vườn tược của nhà Dòng, cho Công an, Du kích ập
đến lục soát, khám xét tịch thu tang chứng, bắt giam hoặc đuổi các Linh
mục, tu sĩ, đi nơi khác đặng có cớ tịch thu cơ sở. Sau đây là hai vụ
điển hình mà người viết từng chứng kiến:
- Vụ thứ nhất là Khu Ao
Cá của Dòng Đồng Công ở ấp Tam Châu (bây giờ là ấp Tam Phú). Khu đất
này khá rộng, gồm chín (09) cái ao cá, một Nhà Nguyện, một căn lầu hai
tầng, một nhà trệt trước 30/04/1975 làm nhà in. Đây quả là miếng mồi
ngon sau khi Cộng sản được Dòng Đồng Công đã phải "tự nguyện dâng hiến"
khu trường học giáp ranh Giáo xứ Tam Hải cho nhà nước XHCN như bất cứ
tư thục nào có từ thời VNCH. Cộng sản rất thèm thuồng Khu Ao Cá nên họ
đã nhiều lần yêu cầu nhà Dòng "tự nguyện dâng hiến" khu này cho nhà
nước để làm Câu Lạc Bộ Thanh Niên Thành Phố. Bởi đó, họ đã mời ông thầy
Cương, Quản Lý Nhà Dòng lên làm việc. Nhưng thầy Cương đã căn cứ vào
chính luật lệ nhà đất của Cộng sản để phản bác, nhất định không dâng
hiến, nên họ tìm cách ăn cướp. Vào một buổi sáng sớm, họ cho du kích đi
tuần tra qua ruộng rau muống cạnh nhà bà Tằng, bà Lượng sát Khu Ao Cá,
bắn mấy phát súng chỉ thiên về phía gian phòng trên lầu là nơi thầy
Cương cư ngụ, rồi xông vào, la toáng lên rằng có người bắn súng từ gian
phòng trên lầu này xuống. Mục đích của họ là bắt ông thầy Cương để lấy
cớ tịch thu Khu Ao Cá. Nhưng cũng thật may phúc cho thầy Cương vì ông
đã dọn khỏi gian này đi qua gian phòng khác từ mấy hôm trước. Đến khám
trong phòng thì trống trơn nên họ đành chịu thất bại.
- Vụ thứ
hai là An Phong Học Viện của Dòng Chúa Cứu Thế ở cạnh nhà máy dệt
Vimytex, Thủ Đức. Lúc đó lợi dụng vụ Linh Mục Nguyễn Văn Vàng thuộc
Dòng Chúa Cứu Thế, Chụ tịch Mặt Trận Liên Tôn bị bắt, Cộng sản Việt Nam
cho Công an đến chiếm An Phong Học Viện bằng những mánh khóe rẻ tiền do
họ dàn dựng. Người viết nhớ lại vào khoảng 4 giờ chiều hôm đó, đã dùng
xe đạp chở hai đứa con nhỏ vào thăm thằng con lớn đang là đệ tử ở An
Phong Học Viện do Linh mục Tiến Lộc phụ trách. Vì không biết Công an
đang vây An Phong Học Viện nên người viết cứ tỉnh bơ nhả thắng cho xe
chạy tuột xuống dốc trên lối vào nhà Dòng. Đến khi nhìn thấy đám Công
an đang lục soát An Phong Học Viện thì đã quá muộn không kịp quay trở
ra. Một tên Công an chạy đến bắt ba bố con người viết vào ngồi dưới lầu
cùng với một cô gái đang bị cầm giữ tại đó. Họ tịch thu giấy tờ và hỏi
người viết vào đây làm gì? Người viết trả lời là vào thăm con đang tu
học ở An Phong Học Viện. Trong thời gian ngồi chờ, người viết chứng
kiến một toán Công an lùa các đệ tử đi ngang qua sang khu khác, trong
đó Linh mục Tiến Lộc bị trói tay Công an dong ngang qua, mặt ông bị họ
đánh tím bầm, miệng sưng vều có vết máu. Rồi một tên Công an mặc áo
xanh Bộ đội, giọng miền Bắc quát tháo với tên công an cầm máy ảnh:
"Mang máy ra cầu thang chụp ngay cái khẩu hiệu vẽ trên tường "Thực hiện
hai điều Bác Thiệu dạy: Đả đảo Cộng Sản, thực hiện chính phủ trung lập
Miền Nam... " Nghe tên Công an quát tháo bảo đàn em như vậy, người viết
dù tinh thần có căng thẳng cũng không sao nhịn cười được cho cái trò vu
khống hết sức rẻ tiền của Cộng sản.
Âm mưu đánh phá và tịch
thu cơ sở của các Nhà Dòng chưa phải là chấm dứt. Họ luôn rình rập tìm
cơ hội hành động mà thôi. Vì nghi ngờ âm mưu ăn cướp của họ nên đối với
Khu Ao Cá thì ngay khi Cộng Sản tấn chiếm Miền Nam, Dòng Đồng Công đã
mở cửa cho Giáo dân trong vùng đến đọc kinh cầu nguyện, dự Thánh Lễ ban
chiều. Tuy Cộng sản vẫn nhòm ngó nhưng chưa dám hành động vì sợ Giáo
dân phản ứng bất lợi. Thời gian trôi qua, khoảng 10 năm sau (1987),
Cộng sản đã tìm đủ mọi cớ để tịch thu các Cơ sở Tôn giáo trong đó có
Trung Tâm Đắc Lộ thuộc Dòng Tên ở Sàigòn và Dòng Đồng Công ở Thủ Đức.
Trong hai vụ này thì vụ Đồng Công ở Thủ Đức có sắc thái khác khi Giáo
dân vùng Tam Hà và những vùng phụ cận đã phản ứng quyết liệt.
Theo tin ghi nhận thì vụ Đồng Công ở Thủ Đức năm 1987 xẩy ra như sau:
Dòng
Đồng Công Thủ Đức do Linh mục Đa Minh Trần Đình Thủ là vị Sáng lập và
Bề Trên Tổng Quyền từ Miền Bắc di cư vào Nam theo Hiệp định Genève
1954, đã chọn xã Tam Bình, quận Thủ Đức tỉnh Gia Định làm nơi xây dựng
Trụ sở chính của nhà Dòng. Trụ sở chính này nằm phía trong, ngay sau
nhà thờ xứ Châu Bình, chạy dài đến tận giáo xứ Tam Hải, gần xa lộ Đại
Hàn gồm khu nhà 36 gian làm Đệ Tử Viện, Trường Trung Học Đồng Công, khu
nhà Hưu Dưỡng dành cho các Linh Mục và Khu Ao Cá. Sau khi Trường Trung
Học Đồng Công phải "tự nguyện dâng hiến" cho nhà nước được mang tên mới
của liệt sĩ Thái Văn Lung (dân địa phương gọi xếch là Liệt sĩ Đái Lung
Tung) thì các khu khác vẫn sinh hoạt bình thường, nếu không nói là co
cụm lại nhằm tránh những đánh phá bất ngờ của Cộng sản. Nhưng sự thể là
trước biến cố 30-04-1975, nhà Dòng đã quyết định cho số đông các thày
di tản qua Hoa Kỳ bằng ghe thuyền. Nhờ đó, Tỉnh Dòng Đồng Công ở hải
ngoại đã có một cơ sở vững chắc tại thành phồ Carthage, tiểu bang
Missouri, Hoa Kỳ, mà hằng năm vẫn tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu làm nơi
hành hương cho hàng chục ngàn tín hữu Việt Nam khắp nơi tên thế giới.
Sự thành công của Dòng Đồng Công tại Hoa Kỳ tất nhiên cũng giúp rất
nhiều cho Nhà Mẹ tại Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Nhờ
đó, Nhà Mẹ bắt đầu phát triển, đặc biệt qua chủ trương "đổi mới" của Võ
Văn Kiệt. Nhưng Cộng sản thì không để yên một khi miếng mồi ngon mà họ
chưa đớp được.
Rồi dịp may đã đến, khi Nhà Mẹ phát triển bằng
việc tổ chức các khóa học Giáo Lý cho Giáo dân quanh vùng cũng như bắt
đầu nhận một số tu sinh. Thế là họ cho Công An đột nhập vây bắt các
Linh mục, tu sĩ. Trước tình hình nguy ngập đó, hàng mấy ngàn giáo dân
quanh vùng như Tam Hà, Thủ Đức, Tam Hiệp, Hố Nai kéo tới nằm la liệt
chung quanh nhà Dòng để giải vây cho các Cha, các thày. Thấy phản ứng
dồn dập của giáo dân như vậy, Cộng sản liền điều động nhiều đơn vị Bộ
Đội đến vây đồng thời cho các tên Công an giả dạng giáo dân sen vào đám
đông để nhận diện những giáo dân mà Cộng sản nghi là chủ mưu sách động.
Kết quả trò bao vây đánh tỉa, Cộng sản dẹp tan được cuộc biểu dương
thầm lặng của giáo dân tại Dòng Đồng Công.
Để đáp ứng tình
hình nguy cấp của Nhà Mẹ bên VN, Tỉnh Dòng Đồng Công ở Missouri đã vận
dụng tối đa phương tiện ở hải ngoại để thông báo và kêu cứu với các Tổ
chức Quốc tế và các cơ quan Truyền thông. Nhưng vì thế giới đang thời
kỳ chiến tranh lạnh, và Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản còn đóng kín,
chưa có nhiều liên hệ với Tây Phương, nhất là Hoa Kỳ nên cuộc vận động
cũng không đem lại ảnh hưởng khả quan nào. Kết quả là toàn Nhà Mẹ 36
gian, Khu Nhà Hưu Dưỡng, Nhà Nguyện của các Cha bị tịch thâu. Nhiều
Linh mục, tu sĩ, trong đó có Cha Bề Trên Đa Minh Trần Đình Thủ phải vào
tù. Số còn lại, họ dồn qua Khu Ao Cá ở bên kia đường. Xin nhớ đây là
thời điểm 1987, trước biến cố Đông Âu 2 năm. Người ta tự hỏi nếu vụ đàn
áp Dòng Đồng Công xẩy ra vào năm 1989 khi có hàng ngàn giáo dân xuống
đường cùng với biến động Đông Âu thì hậu quả sẽ ra sao đối với Việt
Nam?
Biến cố Tòa Khâm Sứ và Giáo xứ Thái Hà ở Miền Bắc Việt Nam
Hai
mươi năm sau (2008), biến cố Tòa Khâm Sứ và Giáo xứ Thái Hà ở Miền Bắc
Việt Nam lại xẩy ra. Thời gian khác, địa điểm khác, tình hình khác.
Không phải chỉ có hàng ngàn, mà là hàng chục ngàn giáo dân khắp nới đổ
sô về Tòa Khâm Sứ Hà Nội và Giáo Xứ Thái Hà để cầu nguyện cho Sự Thật
và Công Lý. Không phải chỉ có giáo dân quanh vùng thuộc các Địa phận
Miền Bắc Việt Nam đến hiệp thông cầu nguyện mà là giáo dân khắp năm
Châu hiệp thông cầu nguyện. Không phải chỉ có một số Linh mục, tu sĩ và
giáo dân hợp nhau cầu nguyện mà toàn thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam,
từ Hội Đồng Giám Mục đến Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, quý Đức Cha
Địa phận, các Hạt, và Giáo xứ và các Tôn giáo bạn đều lên tiếng hiệp
thông cầu nguyện. Không phải chỉ có hệ thống tuyên truyền của nhà nước
đến làm việc một chiều theo lệnh Đảng Cộng sản mà cả một hệ thống
truyền thông quốc tế trực tiếp hay gián tiếp đến quan sát, ghi nhận, và
phổ biến tin tức sốt dẻo trên các Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình và
mạng lưới Internet toàn cầu. Biến cố xẩy ra không chỉ có vài ngày như
vụ Dòng Đồng Công mà cả gần năm trời nay. Không phải chỉ có đơn vị Công
An, Bộ Đội đến vây bắt như Dòng Đồng Công mà toàn bộ hệ thống Nhà nước
và Đảng Cộng sản phải thân hành đến quan sát hoặc theo dõi tình hình.
Không phải chỉ có tấn chiếm vây bắt, tịch thu như Dòng Đồng Công ở tận
Miền Nam, mà lần này nhà nước CSVN đã làm đủ trò khủng bố, kể cả việc
phải mở các cuộc đối thoại, vận động ngoại giao, thương lượng và hứa
hẹn nhằm xoa dịu tình hình ngay giữa thủ đô Hà Nội. Vân vân và vân
vân...
Biến cố Tòa Khâm Sứ và Giáo xứ Thái Hà xẩy ra trong
tình hình mới, như là cú đấm bất ngờ vào mặt mà nhà cầm quyền Cộng sản
Việt Nam nên họ tỏ ra rất cay cú, bởi vì nó nằm ngay giữa thủ đô Hà
Nội. Hồi tưởng lại năm 1981, khi biến cố Ba Lan xẩy ra, ông Trường
Chinh đã đích thân từ Hà Nội vội bay vào Sài Gòn họp các Linh Mục Tổng
Giáo Phận Sài Gòn tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse đường Cường Để mà hăm
dọa Công Giáo rằng: "Nhất định Việt Nam không thể là Ba Lan thứ hai."
Hăm dọa như thế chớ thật trong lòng Cộng Sản Việt Nam rất lo sợ tình
hình xẩy ra như bên Ba Lan, nhất là đối với một Tôn giáo có tổ chức và
kỷ luật chặt chẽ như Giáo Hội Công Giáo thì không biết sự gì sẽ xẩy ra
khi tình hình cho phép. Thế mà hơn hai chục năm sau, nó xẩy ra thật sự
với một dạng thức khác: đòi Công lý và Sự thật.
Không phải ở
Sài Gòn miền Nam với một Khối Tín đồ trên 4 triệu người có tổ chức, kỷ
luật, và có ảnh hưởng rất lớn như Trường Chinh đã đề phòng; mà ngay tại
thủ đô Hà Nội, là cái nôi, cái căn cứ địa của Cộng Sản Việt Nam nên
Cộng sản lo sợ và cay cú là phải. Trong tình hình mới, trước sức mạnh
của quần chúng cùng một Đức tin, trước thời đại thông tin điện tử toàn
cầu, không có gì có thể giấu giếm hoặc bưng bít đuợc như trước thì tất
nhiên CSVN phải khựng lại tìm cách đối phó. Bởi vì người dân trong nước
biết, người Việt hải ngoại biết, Nhà nước Cộng sản biết, thế giới biết,
quốc tế biết, đàn anh Trung Cộng biết, Hoa Kỳ và các nước phương Tây
biết... Và người ta còn biết hơn về bản chất Cộng sản là dối trá và
chuyên dùng bạo lực. Nhưng cũng chính là lúc người dân trong nước không
còn biết sợ là gì nữa... Cộng sản VN biết thế, nên đã khựng lại, lùi
một bước để tiến mấy bước. Tất nhiên nhiều người cũng dư biết rằng:
đừng mong gì Cộng sản sẽ nhả ra một khi họ đã nuốt vô, ngoại trừ sức
mạnh buộc họ phải nhả. Trong tình hình mới này, dư luận thế giới đã
nhận ra đâu là Chính Nghĩa. Chính nghĩa do Công lý và Sự thật mà ra.
Chính nghĩa không phải do bạo lực và dối trá mà có. Chính nghĩa cũng
không dựa trên bạo lực và dối trá để tồn tại. Chính nghĩa đòi nhà cầm
quyền Cộng sản phải tôn trọng Công lý và Sự thật, chấm dứt trò dùng bạo
lực và dối trá. Nhưng Cộng sản VN không nghĩ như thế. Bởi vì họ là Nhà
nuớc "chuyên chính tư bản Đỏ", không phải "chuyên chính vô sản" như họ
vẫn rêu rao. Sử dụng bạo lực và dối trá là sở trường của họ để tồn tại.
Vậy thì Cộng sản Việt Nam sẽ làm gì trong những bước kế tiếp?
Dư
luận cho rằng bài bản dùng bạo lực và dối trá vẫn được Cộng sản tiếp
tục cho thi hành với những thủ đoạn tinh vi mà cái gai trước mắt, Đức
Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt cần phải được nhổ đi trong chủ
trương "Đánh chủ chăn để cho đoàn chiên tan tác".. Bởi đó với
trò dối trá chuyên nghiệp CSVN đã cắt xén lời phát biểu của Đức Tổng
Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đồng thời ra lệnh cho bọn bồi bút trong
hệ thống tuyên truyền của nhà nước xuyên tạc, bóp méo và lăng nhục Đức
Tổng, cố tạo thành luồng dư luận trong nuớc chống đối lại vị lãnh đạo
tinh thần của Tổng Giáo Phận Hà Nội. Mới đây nhất, Chủ tịch Ủy Ban Nhân
Dân thành phố Hà Nội, Nguyễn Thế Thảo đã mở màn chiến dịch tuyên truyền
nhổ cái gai đó khi ông Thảo tổ chức gặp gỡ ngoại giao đoàn. Dư luận
cũng đang dự đoán về những hành động của nhà cầm quyền CSVN trong giai
đoạn tới. Có thể Hà Nội lại cứ tiếp tục tuyên truyền hạ giá Đức Tổng
Giám Mục Ngô Quang Kiệt và khống chế Tòa Giám Mục Hà nội.
Nhưng
coi chừng hành động của nhà nước CSVN trở thành phản tác dụng. Làm sao
có thể bịt mắt được dân chúng khi họ đã từng trải biết bao kinh nghiệm
đau thương dưới chế độ "Độc lập, Tự do, Hạnh phúc" ăn toàn khoai sắn.
Một chế độ chống Mỹ để cuối cùng lạy lục ve vãn xin làm tay sai cho tư
bản Mỹ! Tất nhiên là trò dối trá của Cộng sản VN không dừng ở đó. Nó
bàng bạc khắp nơi, chỉ với mục dích bảo toàn phe nhóm tham nhũng bóc
lột chóp bu. Mới đây nhất, vụ CSVN xử các nhà báo Nguyễn Việt Chiến và
Nguyễn Văn Hải là đủ rõ. Thủ phạm không bị phạt mà nạn nhân lãnh đủ!
Nếu
CSVN quyết tâm dùng bạo lực và dối trá để nhổ cái gai TGM Ngô Quang
Kiệt thì tất nhiên sẽ có nhiều hậu quả khôn lường. Một sự đối địch giữa
Khối Tín Đồ Công Giáo với Nhà nước Cộng Sản sẽ trở nên quyết liệt. Bởi
Khối Tín Đồ này dám chết cho Đức Tin và vận mệnh Giáo Hội trong khi nhà
nước CS đặc biệt là thành phần chóp bu chỉ lo giữ quyền lực và giữ của
thì không dám chết. Nhìn kỹ sẽ thấy hai thái độ hầu như đối nghịch
nhau: Một đàng dám liều chết để lấy sống và một đàng lo sống và lo giữ
của thì sẽ chết! Một Ngô Quang Kiệt này nằm xuống thì sẽ có hàng ngàn
Ngô Quang Kiệt khác đứng lên. Và biết đâu sự hiệp thông cầu nguyện cho
Công Lý và Sự thật sẽ trở thành cuộc đấu tranh giành lại Tự do, Dân
chủ, Nhân quyền cho toàn dân Việt Nam.
Ngày 19/10/2008
Phạm Quang Trình
|