Nếu vậy, Trung Quốc đang có số lượng
tín đồ Thiên Chúa giáo nhiều hơn số đảng viên cộng sản (74 triệu), và
có lẽ ở Trung Quốc đang có nhiều người theo đạo Chúa hơn ở bất cứ quốc
gia nào. Vào năm 1949, khi những người cộng sản chấp chính, [mới chỉ
có] dưới 1 phần trăm dân số từng chịu lễ rửa tội (baptism), hầu hết
trong số họ là người Công giáo. Giờ đây, số giáo hữu Ki-tô lớn nhất và
gia tăng nhanh nhất đang thuộc về các “thánh thất tại gia” Kháng Cách
giáo.
Ở một khu ngoại ô của Thượng Hải, qua khỏi đại lộ Hải
Ninh, các lân gia đang cảnh giác nhìn sang một hàng hiên dẫn tới một
gian phòng, nơi những vị khách đang lần lượt đi vào; lượng người dừng ở
con số 25 – sự tụ tập tối đa không cần phải xin phép theo luật định.
Bên trong, các giảng huấn viên trẻ người nội thành ngồi trên những
chiếc xô-pha và ghế bành bọc giả da. Một thiếu phụ mặc chiếc áo phông
in hình Che Guevara đang làm cử chỉ ban phúc cho nhóm người, còn một
người đàn ông thì đang chiếu từ chiếc
laptop của anh ta lên tường một tài liệu được tải xuống từ
Internet.
Những mái đầu quay về phía màn ảnh và đồng thanh hát: “Vinh quang...
Vinh quang... Vinh quang... Thiêng liêng... Thiêng liêng... Thiêng
liêng... Chúa đang ở kề bên mỗi chúng con...” Đó là một buổi sáng Chủ
nhật, và những cuộc hành lễ đang được bắt đầu bên trong hàng nghìn ngôi
“thánh thất tại gia” trên khắp nước Trung Hoa.
Những “nhà thờ
tại gia” là những giáo đoàn nhỏ, tụ tập để hành lễ một cách bí mật –
thường trong các căn hộ – nhằm tránh sự dòm ngó của Đảng Cộng sản. Từ
thập niên 1950, các nhà thờ Công giáo và Kháng Cách giáo chủ yếu [ở
Trung Quốc] đã được chuyển thành những chi nhánh của một cơ quan hành
chính chuyên trách về các tôn giáo. Các nhà thờ tại gia [hiện đang] có
thân phận không rõ ràng: chẳng bị cấm đoán, song cũng không hoàn toàn
được chấp thuận. Các nhà thờ tại gia Kháng Cách – trong nỗ lực nhu hoà
tránh đối đầu và giữ quy mô nhỏ (thường dưới 25 người) – đang được
hưởng sự khoan thứ nhiều nhất, một cách miễn cưỡng (về phía chính
quyền). Các nhóm Công giáo [tại gia] thì bị xăm soi chặt chẽ hơn, phản
ánh mối quan hệ căng thẳng giữa [chính quyền] Trung Quốc với Vatican.
Sự
tụ tập bí mật tại gia của các tín đồ đã từng là nét đặc trưng của giáo
hội Ki-tô thời sơ sử, khi mà họ thường xuyên phải tìm kế trốn tránh sự
ruồng bố của nhà cầm quyền Đế quốc La Mã. Điều nghịch lý là việc cố ý
giữ các giáo đoàn ở quy mô nhỏ đã giúp quảng bá tín ngưỡng. Diễn biến
này giờ đây đang lặp lại ở Trung Quốc. Đảng Cộng sản, ưu phiền bởi một
ý thức hệ cạnh tranh, đang đứng trước một lựa chọn khó khăn: việc kìm
giữ các thánh thất tại gia ở quy mô nhỏ sẽ đảm bảo cho không một giáo
đoàn nào đủ lớn mạnh để đe doạ ban lãnh đạo Đảng ở địa phương, song
phải trả giá bằng việc số lượng các thánh thất đang gia tăng nhanh
chóng.
Ngôi nhà thờ ở Thượng Hải vừa mới được hai năm tuổi
song đã có hai con đẻ: một dành cho công nhân trong các công ty đa quốc
gia, cái kia dành cho các lao động di cư
[3] . Cùng với sự quảng bá của
Lời [4]
, sự nhân lên nhanh chóng của các thánh thất đã cung cấp một phương
tiện chống lại các mối đe doạ. Vào năm ngoái, một mục sư đã nói với
Far Eastern Economic Review
rằng khi người đứng đầu một nhà thờ bị bắt, “giáo đoàn sẽ lập tức chia
tách thành năm, sáu hoặc thậm chí mười thánh thất tại gia mới.”
Sự
hình thành các “nhà thờ” một cách tràn lan vừa là phúc, vừa là hoạ đối
với phong trào thánh thất tại gia. Tiên sinh họ Triệu có vẻ mặt luôn
tươi cười cho rằng tài chính không phải là vấn đề. “Chúng tôi không
phải trả lương hoặc xây nhà thờ.” Song “chất lượng quản lý” thì khó
lòng bảo đảm. Các thánh thất tại gia có thể tổ chức giảng thánh kinh
hoặc tải xuống các bản thánh ca từ
Internet, song lại không
dễ có được những mục sư giàu kinh nghiệm. “Ở Trung Quốc, một Ki-tô hữu
hai tuổi đạo thì giảng dạy cho các giáo hữu một tuổi,” một mục sư cho
hay.
Do chỗ hầu hết các nhà thờ tại gia Kháng Cách là
phi giáo phái (không liên kết với các giáo lý như
Lutheranism [Tin Lành],
Methodism
[Giám Lý], v.v...), họ cũng không có những nghi thức lễ bái hay tập tục
xác định. Mục vụ của họ giống như các buổi học Kinh Thánh. Điều này
chất một gánh nặng lên vai các mục sư. Một vị mục sư thuộc giáo đoàn
Thượng Hải từng thăm viếng nhiều nhà thờ tại gia đã thở dài ngao ngán
rằng: “Vị
cha này biết anh ta đang nói gì...”
Tuy
nhiên, những khó nhọc “tuổi mọc răng” của các nhà thờ là chuyện nhỏ so
với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng các Ki-tô hữu. Sau cuộc thảm sát
Thiên An Môn năm 1989, nhiều nhà dân chủ vỡ mộng đã theo Thiên Chúa
giáo: sáu trong số khoảng ba chục nhà lãnh đạo sinh viên đã trở thành
các Ki-tô hữu. Các thánh thất tại gia mới ở Trung Quốc đang ngập tràn
nhiệt huyết của những người cải đạo: nhiều giáo hữu đến mang theo cả
gia đình và đồng nghiệp của họ. Một nho sĩ Trung Hoa nói trong nụ cười
buồn bã rằng hầu hết các nữ sinh xinh đẹp ở các trường đại học đã thành
giáo dân Thiên Chúa, và chỉ hẹn hò với những Ki-tô hữu khác.
Thánh thiện hơn và thời thượng hơn Đạo
Thiên Chúa cũng đang theo chân những người Hoa xuất dương. Nhiều con
chiên của Chúa đã từng theo học ở Hoa Kỳ, cải đạo ở đó rồi mang theo
tín ngưỡng mới về nước. Như lời tiên sinh họ Triệu, vài người trong
giáo đoàn thánh thất tại gia ở Thượng Hải từng tu nghiệp ở nước ngoài.
Một nhà văn ở Bắc Kinh đã cải theo Thiên Chúa giáo cho biết, trước năm
2000, hầu hết tín đồ đều ở thôn quê. Từ sau năm 2000 họ mang tín ngưỡng
của mình vào các đô thị, quảng bá đạo Chúa trong giới trí thức.
Toàn
bộ điều này đang đưa đến một cái gì đó mà ít nhất, có thể khiến người
châu Âu phải ngạc nhiên. Ở nhiều thánh địa xưa kia của đạo Ki-tô, tôn
giáo gắn bó với những truyền thống và điển lễ. Ở Trung Quốc, nó [lại]
đang liên kết với tính hiện đại, doanh thương và khoa học. “Chúng tôi
là những giáo hữu Ki-tô thế hệ đầu tiên và những doanh nhân thế hệ đầu
tiên,” lời một mục sư [Kháng Cách] của một thánh thất tại gia. Trong
một bài báo từng gây nhiều tranh cãi hồi năm 2006, Triệu tiên sinh đã
viết rằng “nền kinh tế thị trường đang đẩy lùi sự vô công rỗi nghề,
song lại không thể can ngăn chúng nhân khỏi thói dối trá và làm tàng.
Một tín ngưỡng mạnh mẽ sẽ giúp ngăn cản sự thiếu trung thực và xâm
hại.” Trong mắt ông, đạo Ki-tô và kinh tế thị trường đang nắm tay nhau
song hành.
Lâu nay, đối với cá nhân các tín đồ, sự quảng bá
Ki-tô giáo chủ yếu là một công việc riêng tư. Câu hỏi lớn nhất [giờ
đây] là liệu nó còn tiếp tục riêng tư được nữa hay không. Mức độ phát
triển và số lượng môn đồ của nó đang gợi ý câu trả lời ‘không’. Song
vào lúc này, cả các giáo hữu Ki-tô lẫn những người cộng sản đều tỏ ra
sẵn lòng để cho tình trạng nhập nhằng kia được nấn ná thêm một thời
gian.
“Các giáo hữu Ki-tô sẵn sàng chung sống cùng hệ thống,”
tiên sinh họ Triệu thổ lộ. “Thiên Chúa giáo cũng là nền móng cho tư
cách công dân tốt ở Trung Quốc.” Hầu hết giáo dân đều nói rằng họ không
phải là một tổ chức chính trị và không chủ trương thách thức Đảng Cộng
sản. Song họ cũng cho thấy sự đụng độ với chính sách công là không
tránh khỏi; để thí dụ: không một giáo dân nào chấp nhận chính sách một
con.
Một cách chính thức, Đảng Cộng sản nghiêm cấm các đảng
viên giữ niềm tin tôn giáo, còn các nhà thờ thì cho biết họ [thường
xuyên] chịu sự quấy rầy của chính quyền. Vị chủ tịch của hiệp hội các
nhà thờ tại gia ở Bắc Kinh, ông Trương Minh Tuyền, đã bị trục xuất khỏi
thủ đô trước Thế vận hội và được thông báo rằng sự quay trở lại của ông
sẽ không được hoan nghênh. Hồi đầu tháng Sáu, chính quyền tỉnh Hà Nam
đã bắt giữ nửa tá thành viên các thánh thất tại gia với lời buộc tội
rằng họ đã chuyển một cách bất hợp pháp những khoản quyên góp thiện
nguyện tới các nạn nhân động đất ở Tứ Xuyên. CAA cáo giác rằng sự cản
phá [hoạt động của] các nhà thờ tại gia đang gia tăng.
Trên
thực tế, thái độ của nhà cầm quyền tỏ ra là nước đôi. Hồi tháng Mười
Hai năm 2007, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã chủ trì một cuộc gặp với các nhà
lãnh đạo tôn giáo và nói với họ rằng “tri thức của giáo dân cần phải
được khai dụng để xây dựng một xã hội phồn vinh.” Sự thật thì giáo dân
Thiên Chúa và những người cộng sản đang vờn nhau trong ánh mắt cảnh
giác. Song khó mà tránh khỏi kết luận rằng một ngày nào đó, Thiên Chúa
giáo sẽ có một ảnh hưởng chính trị. “Nếu muốn biết nước Trung Hoa sẽ ra
sao trong tương lai, hãy soi xét tương lai của Thiên Chúa giáo ở Trung
Quốc,” Triệu tiên sinh nhận định.
Bản tiếng Việt © 2008 talawas
[1]Nhan
đề của nguyên bản – “Sons of heaven” – là một sự chơi chữ: “Son [of
God]” (Chúa Con) cũng là danh xưng mà các Ki-tô hữu dùng để gọi Jesus
Christ, nhất là khi ông được tham chiếu đến ngôi thứ hai trong khái
niệm “Ba Ngôi” (Trinity). (Các chú thích là của người dịch.)
[2]Trên hiện trường tiếng Việt, “Kháng Cách giáo” (Protestantism) thường được gọi là “đạo Tin Lành”, trong khi thực ra,
Tin Lành (Lutheranism) chỉ là một trong những hệ phái của Kháng Cách giáo. Rất có thể, điều này phản ánh một thực tế rằng
Lutheranism lâu nay đang là hệ phái Kháng Cách duy nhất tồn tại và phát triển ở Việt Nam.
[3]“lao
động di cư” (migrant labourers): người lao động có gốc gác nông dân, từ
nông thôn tràn vào các đô thị kiếm sống. Ở các thành phố duyên hải
Trung Quốc hiện nay, số lượng tổng cộng các lao động loại này rất lớn,
chừng 200–300 triệu người. Trong tiếng Trung Quốc, họ được gọi là các
“di-cư lao-công” hoặc “nông-công-nhân”.
[4]Lời (Word, viết hoa): một cách gọi khác của Kinh Thánh.