(Cung đình Cộng sản Hà Nội từ 1991 đến 2008)
Bùi Tín
Lời mở đầu
Vì sao lại cần nghiên cứu chuyên đề này ?
Từ cuối năm 2001, các bạn tôi từ Hà Nội cho biết có một chính phủ MA ở
Hà Nội. Tôi tưởng đây là câu nói đùa cho vui. Thế mà là sự thật. Một sự
thật thâm thuý, không dễ thấy. MA là gì. Phải chăng đó là viết tắt tên
của hai nhân vật tuy đã về hưu nhưng vẫn còn quyền uy lớn đối với chế
độ cộng sản hiện hành? M là chỉ ông Mười, Đỗ Mười; A là chỉ ông Anh, Lê
Đức Anh. MA là M+A một cặp nhân vật gắn bó với nhau: Mười + Anh.
MA còn có nghĩa là ma quỷ, là có những mưu đồ thâm hiểm xảo quyệt, có
hại cho dân cho nước. MA còn có nghĩa nữa là không có thật, nhưng do
lòng tin mù quáng của một số người đời mà thành ra có uy quyền, gây nể
sợ cho xã hội. Như con ma ở gốc cây đa, không có thật, nhưng do mê tín
của người yếu bóng vía nên được kinh sợ, được cúng bái, dâng lễ, cầu
xin sự che chở và ban ơn, ban bổng lộc, hạnh phúc.
Cũng từ Hà Nội các bạn tôi nói đến Cung Vua và Phủ Chúa. Ý nói Cung
đình Hà Nội có thể ví như một triều đình phong kiến, Tổng bí thư có uy
quyền tối cao, như một Hoàng đế, là kẻ có quyền quyết định tối cao và
cuối cùng. Thời xưa, có Vua tốt, tài giỏi, đức độ, là ''Minh Quân'', có
Vua xấu, dốt, ăn chơi trác táng, như vua ''Ngọa Triều ''.
Quanh Vua là Tứ trụ triều đình; nay trong Cung đình cộng sản là Uỷ viên
Thường trực Bộ chính trị, Chủ tịch Nước, Thủ tướng và Chủ tich Quốc
hội.
Còn Phủ Chúa là ai ? là cái thế lực không có tên gọi, danh xưng chính
thức, không có trụ sở chính thức, không có bộ máy chính thức, chỉ có
M+A, chỉ có 2 nhân vật đã nghỉ hưu, nhưng vẫn có thế lực và quyền uy,
có công cụ không thể coi thường. Xưa kia, có những thời kỳ có hai quyền
lực song song tồn tại, phối hợp rồi lại cạnh tranh với nhau, vua Lê -
chúa Trịnh trong thế kỷ thứ 16.
Tình trạng Cung Vua và Phủ Chúa trong chế độ độc đảng ở Việt Nam gần
đây là có thật. Không những thế, nó còn là chìa khoá để có thể hiểu rõ
được mọi diễn biến chính của thời cuộc Việt Nam, của diễn biến thời sự
ở Việt Nam, những thành đạt và nhất là những trở ngại, mâu thuẫn và
nghịch lý ở Việt Nam trên con đường ''đổi mới'' và ''hòa nhập'', từ
khoảng năm 1991, nghĩa là từ đại hội VII Đảng CS Việt Nam đến nay.
Nó xứng đáng được đặt thành một chủ đề để khảo cứu một cách nghiêm
chỉnh và khoa học, nhất là đối với các nhà hoạt động chính trị, những
tổ chức và cá nhân đối lập với chính quyền độc đảng toàn trị, những trí
thức yêu nước, nhà văn hoá, hoạt động văn học nghệ thuật chuộng tự do
sáng tạo, các bạn trẻ khao khát cống hiến cho tổ quốc.
I. Hoàn cảnh dẫn đến tình trạng ''cung Vua và phủ Chúa''
1- Sự sụp đổ của phe Xã hội chủ nghĩa (XHCN) và khủng hoảng chế độ chính trị ở Việt Nam
Các nước XHCN ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng chính trị vào cuối những
năm 80 của thế kỷ 20, dẫn đến các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Bun Ga Ri,
Hun Ga Ri, Nam Tư... chuyển từ chế độ độc đảng lên đa đảng, rồi sự kiện
bức tường Berlin đột nhiên sụp đổ tháng 11-1989 dẫn đến hòa bình thống
nhất nước Đức trong chế độ dân chủ đa đảng đã là những sự kiện chính
trị cực kỳ chấn động vào cơ quan lãnh đạo Đảng CS Việt Nam. Niệm tin
vững chãi do mù quáng giáo điều vào sự bất khả xâm phạm và thế tất
thắng của phe CNXH bị tiêu tan trong thực tế; lý luận cơ bản về ''bước
quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội (mác-xít) trên phạm vi
toàn thế giới'' bị thực tế bác bỏ. Một không khí ảm đạm, dao động, cho
đến hoang mang và bi quan bao trùm đảng. Bộ chính trị đảng CS Việt Nam
cố trấn tĩnh khi nhận những tin dữ, như vợ chồng ''đồng chí tổng bí thư
Xéuxescu'' ở Rumani bị xử bắn và ''đồng chí tổng bí thư Honecker'' ở
Berlin bị quản chế, chờ ngày ra tòa.
Niềm an ủi duy nhất đối với nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lúc ấy là dù sao
Liên Xô thành trì của phong trào cộng sản quốc tế còn tồn tại, và vẫn
còn tồn tại vài nước cộng sản khác: Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba;
có thể kể thêm Lào nữa.
Một thời gian sau đó, vào tháng 8-1991, tình hình Liên Xô đột biến,
cuộc đảo chính nhằm lật đổ tổng thống Gorbachev thất bại, Đảng CS Liên
Xô bị giải thể, Liên bang Xô Viết tan vỡ, tổng thống Yeltsin lên cầm
quyền với một nước Nga đa nguyên đa đảng. Trên thế giới, chiến tranh
lạnh giữa 2 phe chấm dứt. Phong trào cộng sản quốc tế tan vỡ. Đây là
một cơn động đất chính trị kinh hoàng đối với nhóm lãnh đạo CS cầm
quyền ở Hà Nội. Vì suốt nửa thế kỷ, đảng CS Liên Xô và Liên bang Xô
Viết là chỗ dựa vững chắc về tư tưởng, lý luận, chính trị, kinh tế, văn
hoá, quốc phòng, là Người Thầy, là Ngôi sao, là Khuôn mẫu, nguồn cung
cấp vũ khí - tên lửa, máy bay, rada, tàu chiến -, trang bị kỹ thuật
công nghiệp, lương thực, ngoại tệ...
2- Trước một sự lựa chọn có ý nghĩa quyết định
Nhóm lãnh đạo CS ở Hà Nội đứng trước một sự lựa chọn có ý nghĩa quyết định cả về đường lối đối nội và về đường lối đối ngoại.
Về đối nội, có nên tiếp tục con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
(mác-xít) và chủ nghĩa cộng sản như đã thực hiện lâu nay hay không ?
Hay nên theo con đường chuyển biến từ chuyên chế sang dân chủ, từ độc
dảng sang đa nguyên đa đảng như một số nước ở Đông Âu cùng nước Nga và
một số nước thuộc Liên Xô cũ vừa trải qua, theo con đường Perestroika
(cải tổ) và Glasnost (minh bạch) do Gorbachev đề xướng?
Về đối ngoại, có nên rời bỏ phong trào cộng sản quốc tế đã tan rã và
phe xã hội chủ nghĩa đã tan vỡ, để hòa nhập dứt khoát vào thế giới dân
chủ gồm tuyệt đại đa số nước đã thực hiện chế độ chính trị đa nguyên đa
đảng, lấy xã hội công dân, với tự do ngôn luận, báo chí, bầu cử làm nền
tảng?
Thật ra đã không có một cuộc thảo luận nghiêm chỉnh trong đảng CS,
trong quốc hội, trong bộ máy chính quyền, trong giới trí thức-học thuật
cũng như trong giới truyền thông báo chí ở nước ta. Sự thật đáng sợ
quá!
Qua nửa thế kỷ cầm quyền của đảng CS trên miền Bắc và hơn 16 năm trên
cả nước, quyền tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận của người dân đã bị thủ
tiêu, người dân ít có ai giữ được khả năng tư duy độc lập, hầu như toàn
dân đã quen với nếp sống đã có đảng lo nghĩ thay cho mình mọi sự. Cả
một lớp trí thức đã bị đảng làm cho mê muội, cắt đứt với thế giới tiến
bộ, gần như vô cảm đối với vận mệnh dân tộc và cuộc sống mất tự do của
nhân dân.
Hệ thống truyền thông như truyền thanh, truyền hình, báo chí đều nằm
trọn trong tay đảng, nếu như đảng sáng suốt, minh mẫn, sáng tạo thì dân
được nhờ, đảng sai lầm, giáo điều, hủ lậu thì dân đành chịu, chỉ còn
biết lắc đầu, thở dài và cam chịu, nếu không muốn chuốc vạ vào mình và
gia đình.
Do đó, vào năm 1991, khi đảng CS Liên Xô tắt thở và phe XHCN cáo chung,
lẽ ra đảng CS Việt Nam cần có một cuộc nhìn lại mình thật sâu sắc,
triệt để, thực hiện một cuộc tự phê bình chân thực đầy trách nhiệm
trước dân tộc và nhân dân, bày ra mọi khả năng lựa chọn về con đường
sắp tới, lấy ý kiến của toàn đảng và toàn dân, cân nhắc phải trái, hơn
thiệt cho thật kỹ càng chu đáo, thế nhưng nhóm lãnh đạo đảng CS đã
không làm như thế.
Tệ sùng bái đảng CS, sùng bái lãnh tụ Hồ Chí Minh, đinh ninh rằng đảng
và lãnh tụ không bao giờ lầm lẫn, làm cho mỗi con người mất sáng suốt,
mù quáng, dù thấy sai cũng không dám nói, biết đường đì sai mà không
dám quay lại, đây là bi kịch kinh khủng nhất của đảng CS, của nước ta,
trong hơn nửa thế kỷ qua.[1]
Một cơ hội lịch sử đã bị bỏ qua, do bản chất tự mãn, cao ngạo của nhóm
lãnh đạo cộng sản, luôn bị tự mình mê hoặc mình về cái gọi là '' chiến
công lịch sử đánh thắng liền 3 đế quốc hàng đầu của châu Á (Nhật Bản),
châu Âu (Pháp) và châu Mỹ (Hoa Kỳ)''. Những cơn say chiến thắng với căn
bệnh kiêu ngạo chủ quan của nhóm lãnh đạo dẫn đến thảm họa sâu thẳm và
kéo dài như vô tận của nhân dân bất hạnh không lối thoát.
Trách nhiệm này đè nặng trên vai Bộ chính trị của khoá Đai hội VII ĐCS
Việt Nam. Mặt khác, cả một tầng lớp trí thức vốn thông minh hiếu học bị
chăn dắt theo kiểu nhồi sọ, giáo điều lâu năm đã trở nên thụ động và vô
cảm, để mặc cho tình hình đất nước nổi trôi, tự cảm thấy vô can và bất
lực. Với tình trạng ấy, trong đảng và ngoài đảng, khó có thể xuất hiện
một nhân vật mà lịch sử cần đến, như một Lech Walesa hay một Vaclav
Havel, một Gorbachev hay một Yelsin.
Công bằng mà nói, hồi 1988 có xuất hiện một Trần Xuân Bách trong bộ
chính trị, rồi đến 1995 một Trần Độ với quân hàm trung tướng, nguyên uỷ
viên trung ương đảng, phó chủ tịch Quốc hội, rồi một Phan Đình Diệu
tiến sĩ toán học ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc... lên tiếng
đòi chấm dứt nền chuyên chính một đảng, chuyển hướng sang nền chính trị
đa nguyên, tiến theo những giá trị dân chủ của thới đại. Những nhân vật
này, tuy thất bại tạm thời, đã vớt vát danh dự của cả lớp trí thức còn
mê muội và mê ngủ, tự chuốc lấy sự trừng phạt, trả thù và vu cáo của
nhóm lãnh đạo, nhưng đã nêu gương sáng quý hiếm về trí tuệ và tâm huyết
cho thế hệ tiếp theo.
3 - Chọn phương hướng của Đại hội VII ĐCS Việt Nam
Năm 1986, Đại hội VI họp từ ngày 15 đến 18 tháng 12 quyết định thực
hiện đường lối ''Đổi mới''. Một không khí phấn chấn và hy vọng nảy sinh
sau hơn 10 năm khủng hoảng triền miên, do bị cô lập và phong tỏa sau
khi quân đội ''nhân dân'' Việt Nam vào Kampuchia và ở lại, sa lầy trong
gần 10 năm. Việt Nam vào Liên Hợp Quốc từ cuối năm 1977, nhưng chỉ để
bị lên án tại đó về hành động '' chiếm đóng lâu dài đất nước Chùa
Tháp''. Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 và cuộc chiến
tranh Việt Nam - Khơme Đỏ ở phía Nam (từ 1977 đến 1988) là 2 cuộc chiến
do bành trướng Bắc Kinh thực hiện nhằm làm suy yếu Việt Nam toàn diện,
Lạm phát lên đến 300, rồi 500% / năm. Tài nguyên kiệt quệ. Chỗ dựa duy
nhất ở bên ngoài là Liên Xô cũng đầy khó khăn và khủng hoảng.
Nhóm lãnh đạo do Tổng bí thư Trường Chinh, rồi Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh (được bầu trong Đại hội VI) cầm đầu buộc phải thực hiện cuộc ''
đổi mới'' theo hướng perestroika (cải tổ) và glasnost (minh bạch, công
khai) của đảng CS Liên Xô. ''Quân tình nguyện'' Việt Nam rút hết khỏi
Kampuchia năm 1988. Khoán sản phẩm được thực hiện rộng khắp trong nông
nghiệp; tự do buôn bán, lưu thông, kinh doanh được áp dụng; tự do sáng
tạo trong văn học nghệ thuật được khuyến khích. Một không khí thoải
mái, dễ thở, hy vọng được nhen nhóm. Trong giới trí thức, có một luồng
không khí lạc quan tuy còn dè dặt đặt ở các nhân vật Nguyễn Văn Linh,
Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt... Trong những năm 1987 và
1988, bên cạnh tự do kinh tế, một số tự do chính trị đã thành hiện
thực, như bước đầu tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tranh luận và
tự do sáng tác trong không khí khá là cởi mở, thoáng đãng và hứng thú.
Khi tường Berlin sụp đổ - Ba Lan vào kỉ nguyên mới
Lẽ ra Đại hội VII được chuẩn bị từ đầu năm 1990, họp từ 24 đến 27 rháng
6 năm 1991 phải mang những nội dung tiến bộ hơn Đại hội VI như cả xã
hội mong chờ, thì ngược lại, nó lại là một bước lùi, và oái oăm hơn,
còn là bước lùi ngoạn mục !
Trước những diễn biến thời cuộc ở Đông Âu năm 1990, thắng lợi của Công
đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, bước tiến của Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc, dân
Hung Ga Ri hàng vạn người di cư sang Áo, rồi bức tường Berlin bị thủng
rồi vỡ tan trong niềm hân hoan phẩn khởi vô tận của quần chúng tại đó,
bộ chính trị ở Hà Nội lại hoảng sợ đến kinh hoàng. Họ hoảng sợ bị mất
quyền, quyền lợi cũng sẽ mất.
Nghị quyết Đại hội VII ghi rõ nguy cơ số một của đảng và đất nước là
''chệch hướng Xã hội chủ nghĩa'', nói rõ đây là CNXH mác-xít, với nền
chuyên chính vô sản, độc quyền của đảng cộng sản, và nguy cơ đi cùng
nguy cơ nói trên là nguy cơ ''diễn biến hòa bình'' nghĩa là thay đổi
chế độ từ độc đảng sang đa nguyên đa đảng bằng phương pháp không bạo
lực. Hai nguy cơ khác nữa được Đại hội VII chỉ ra là nguy cơ tham nhũng
tràn lan và nguy cơ tụt hậu, thua kém các nước láng giềng ngày càng xa.
4- Từ phân tích nguyên nhân tan rã của phe XHCN
Về nguyên nhân đột biến chính trị ở Đông Âu và nguy cơ tan rã của phe XHCN, có 2 cách phân tích trái ngược nhau.
a) một cách phân tích phổ biến rộng rãi trên thế giới cho rằng sự thất
bại của mô hình XHCN mác-xít, sự tan rã của phe XHCN do Liên Xô cầm đầu
là hợp quy luật phát triển xã hội, là nằm trong cái bản chất độc đoán
phi dân chủ của cái mô hình và cái phe ấy, nằm trong bản chất hung bạo
của nền chuyên chính vô sản và của học thuyết đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác, ở tính chất tàn bạo phi nhân trong vận dụng lý luận
Mác-xít vào thực tế bởi Lénin, Stalin, Mao và các đảng cộng sản khi nắm
được chính quyền. Hồ sơ đen của chủ nghĩa cộng sản (Le livre noir du
communisme) là cuốn sách kinh điển do các nhà lý luận chính trị, triết
học có uy tín nhất ở phương Tây chung sức tổng kết đã chứng minh chủ
nghĩa xã hội thực tiễn đã tàn sát đến hơn 100 triệu nhân dân các nước
nó thống trị trong ''hòa bình'', phần lớn là thuộc bộ phận tinh hoa của
các dân tộc, vượt quá tội ác của bọn phát xít Hitler..
Những người có tư duy khách quan khoa học trên đây coi sự xuất hiện của
phe XHCN - mà Việt Nam từng tự nhận là một tiền đồn - thật ra chỉ là
một lầm lẫn của Lịch sử loài người, sự tiêu vong tất yếu của nó nằm
ngay trong bản chất Trí tuệ, Thiện, Lành mạnh của con người có khả năng
chiến thắng mặt Mù quáng, Ác, Bệnh hoạn cũng của con người trên thế
gian này. Họ đánh giá những Walesa, Havel, Gorbachev, Yeltsin ... là
những nhân vật sáng suốt và dũng cảm, những nhân vật mang chất nhân bản
và anh hùng, được cả quần thể loài người quý trọng bền lâu, chẳng cần
đến tượng đồng hay bia đá, lăng tẩm đồ sộ nặng nề. Họ đã được các thế
lực tiến bộ trên khắp thế giới khuyến khích, ủng hộ và tiếp sức trong
sự nghiệp cứu nước của mình.
b) cách phân tích khác cho rằng các nước XHCN Đông Âu bị giải thể,
từơng Berlin bị đổ sập, đảng CS Liên Xô tan vỡ, Liên bang Xô viết cáo
chung, phe XHCN rã rời là một sự kiện đau xót cho phong trào cộng sản
quốc tế và nhân loại tiến bộ (!), là tội ác phá hoại gây nên bởi bọn cơ
hội hữu khuynh trong phong trào cộng sản đã phản bội phong trào, tự
nguyện làm tay sai cho chủ nghĩa đế quốc thế giới. Với cách phân tích
chủ quan, giáo điều, không dám nhìn thẳng vào sự thật, những người lãnh
đạo cộng sản mù quáng, hoang tưởng giải thích rằng thất bại này chỉ là
về chiến thuật, tạm thời (!), chỉ là một cơn bão có giới hạn trong
không gian và thời gian, rồi sẽ trời quang mây tạnh, phong trào cộng
sản và phe XHCN sẽ hồi phục và toàn thắng (!).
Cứu vớt CNXH đang lâm nguy, cứu vớt phe XHCN đang chìm xuồng là 2 lời kêu cứu và khẩu hiệu hành động khẩn cấp của Đại hội VII.
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lénin - mà bức hình màu to lớn của 2 vị
này nổi bật trước hội trường của Đại hội, ngự trị ngay trên bức tượng
Hồ Chí Minh, Đại hội VII chủ trương trụ vững chế độ XHCN mác-xít trước
sóng to gió lớn, thắt chặt liên minh với các nước XHCN anh em còn lại
bao gồm Trung Quốc, Cuba, Lào và Bắc Hàn.
Chủ trương và đường lối này liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, giữa đảng CS Việt Nam với đảng CS Trung Quốc.
Mối quan hệ này đóng vai trò cực kỳ hệ trọng, có thể nói là quyết định
trong việc hình thành thế ''Cung vua và Phủ chúa'', chủ đề nghiên cứu
của bài khảo luận này.
5- Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đây là mối quan hệ thay đổi, lên xuống, khi là bạn cực thân khi là thù
không đội trời chung, khi là đồng chí khi là địch thủ, khi hòa bình khi
chiến tranh, khi liên minh đoàn kết khi mâu thuẫn đối kháng trong mấy
chục năm qua.
Từ xa xưa, một nghìn năm Bắc thuộc, rồi các cuộc xâm lược thời Nguyên -
Mông để lại những dấu ấn sâu đậm trong quan hệ hai nước.
Việt Nam vẫn kiên định…
Bước vào Đại hội VII, giữa năm 1991, quan hệ Việt-Trung đang ở vào thời
điểm tế nhị. Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung đầu năm 1979 vẫn hằn
sâu trong trí nhớ của nhân dân hai nước. Cuộc chiến tranh Việt Nam -
Khơme Đỏ cũng là một kiểu chiến tranh Việt - Trung, Bắc Kinh dùng quân
Khơme Đỏ do họ nuôi dưỡng, trang bị, huấn luyện và chỉ huy làm chảy máu
Việt Nam dòng dã hơn 10 năm (với hơn 50 ngàn sinh mạng thanh niên Việt
và 30 vạn bị thương) chỉ mới chấm dứt được hơn 2 năm, khi quân Việt Nam
rút hết khỏi Kampuchia.
Lê Duẩn, tổng bí thư đảng CS Việt Nam từ Đại hội III (tháng 9- 1960)
trong thời kỳ cuối đời mình đã chuyển sang lập trường chống bá quyền
Trung Quốc mạnh mẽ nhất, từng nói công khai rằng ''Việt Nam còn phải
kiên cường và cảnh giác chống bành trướng bá quyền Trung Quốc hàng trăm
năm nữa'', đã qua đời vào tháng 7 năm 1987; bên Trung Quốc, Đặng Tiểu
Bình tổng bí thư đảng CS Trung Quốc, người từng chủ trương trừng phạt
Việt Nam bằng những đòn quân sự mạnh mẽ, vẫn còn ở cương vị đầy quyền
uy: Chủ tịch ủy ban Quân sự trung ương đảng. Đặng Tiểu Bình cũng đã đặt
vào vị trí tổng bí thư đảng CS Trung Quốc nhân vật tin cẩn nhất của ông
ta là Giang Trạch Dân từ tháng 6 năm 1989, cùng với Lý Bằng ở cương vị
Thủ tướng. Hai nhân vật này theo gương Đặng Tiểu Bình luôn tỏ ra cao
ngạo, trịch thượng với Việt Nam.
Đặng cũng như Giang và Lý đều rất cay cú về việc tháng 12-1980, Quốc
hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 7, nhất trí thông
qua bản Hiến Pháp mới năm 1980, thay cho bản hiến pháp cũ năm 1960,
trong đó ''Lời nói đầu'' đã thêm hẳn một đoạn, toàn văn như sau :
"Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta tha thiết
mong muốn có hòa bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với
bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược, cùng bè lũ tay sai của chúng ở
Cam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta
đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây-Nam và chống bọn
bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình".
6- Cuộc gặp cấp cao Việt Trung ở Thành Đô (tháng 9-1990)
Từ đầu năm 1990, khi các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội VII đã được
thông qua và đưa xuống cho cơ sở các địa phương thảo luận, Bắc Kinh qua
sứ quán Tàu ở Hà Nội nắm chắc mọi động tĩnh trong nội bộ đảng CS Việt
Nam, ngửi thấy xu thế mong muốn hòa giải và liên minh trở lại với Trung
Quốc, liền đi một nước cờ hiểm hóc.
Ngày 29-8-1990 đại sứ Trương Đức Duy xin gặp tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh và thủ tướng Đỗ Mười để chuyển thông điệp của tổng bí thư Giang
Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng mời 3 vị: tổng bí thư Nguyễn Văn Linh,
thủ tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh
Tứ Xuyên vào ngày 3-9-1990 để ''hội đàm bí mật về vấn đề Kampuchia và
vấn đề bình thường hoá giữa hai nước''. Mới trước đây họ tỏ ra lạnh
nhạt, chần chừ trong việc gặp cấp cao và bình thường hoá, bỗng tỏ ra
thiện chí nhanh nhẩu đến mức khẩn cấp, cuộc gặp sẽ diễn ra chỉ sau lời
mời có 5 ngày. Nhóm lãnh đạo Bắc Kinh sớm nhận ra rằng trong cơ quan
lãnh đạo Hà Nội đang hình thành một nhóm nhân vật tỏ rõ nhu cầu sớm hòa
giải và liên minh với Trung Quốc, cần tranh thủ ngay để tác động đến
Đại hội VII cả về đường lối và nhân sự.
Theo nhận xét của thứ trưởng Trần Quang Cơ lúc ấy nắm chắc mọi hồ sơ
tuyệt mật, cuộc họp cấp cao Thành Đô là một thất bại, phía Việt Nam bị
mắc bẫy, bị mắc lỡm, bị đánh lừa và chơi xấu bởi Đặng tiểu Bình, Giang
Trạch Dân và Lý Bằng. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thiếu kinh nghiệm
quốc tế, nhanh nhẩu ''vâng vâng dạ dạ'' mọi ý kiến của phía Trung Quốc,
lại còn đi xa hơn họ, bảo hoàng hơn vua, đồng tình ngay với công thức
6+2+2+2+1 = 13 về thành viên của Hội đồng Quốc gia tối cao SNC (Suprême
National Council) ở Kampuchia: 6 người phía Hun Sen+2 Khơme đỏ, 2 của
Son San , 2 của Sihanouk + bản thân Sihanouk. Dự kiến trước đó là SNC
chỉ có 12 người, mỗi phía 6, không có riêng Sihanouk ở vị trí Chủ tọa
như Bắc Kinh vừa thêm vào. Sự chấp nhận của Hà Nội ngay sau đó vấp phải
sự phản đối của Hun Sen, Hun Sen cho rằng Việt Nam đã thỏa hiệp vô
nguyên tắc trên lưng chính quyền Pnom Penh.
Mở đầu một thời phiên thuộc mới
Bẽ bàng hơn nữa cho phía Việt Nam là ''giải pháp đỏ '' đưa ra với nội
dung đoàn kết chặt chẽ tất cả các đảng cộng sản lại từ đảng CS Trung
Quốc, Việt Nam, đảng của Hun Sen, CS Khơme Đỏ..., cùng nhau trụ lại
trước hiểm nguy, tưởng rằng sẽ được Bắc Kinh vồ vập, liền bị phía Trung
Quốc lạnh nhạt bác bỏ. Lý Bằng giải thích rằng đảng của Hun Sen và đảng
của Pol Pốt khó đoàn kết với nhau, hai phái cộng sản này uy tín quốc tế
kém hơn uy tín quốc tế của phái Son San và phái Sihanouk, do đó nếu gắn
bó với nhau chỉ cản trở thêm cho công việc của Hội đồng Dân tộc Tối cao
trong thực hiện hòa giải ở Kampuchia. Giang Trạch Dân còn nói rõ cho
phía Việt Nam rằng: ''Tình hình quốc tế hiện nay, nếu để hai đảng CS
(Trung Quốc và Việt Nam) bắt tay nhau là không có lợi; các nước phương
Tây rất chú ý đến quan hệ giữa chúng ta''. Ai cũng biết, từ lâu Đặng
Tiểu Bình và nhóm lãnh đạo Bắc Kinh không còn nói đến chủ nghĩa quốc tế
vô sản, không nói gì đến phe XHCN, họ nhấn mạnh đến kiểu XHCN riêng
biệt của Trung Quốc, mang màu sắc riêng, đặc biệt của dân tộc Trung
Quốc, quay về chủ nghĩa dân tộc, trong khi nhóm lãnh đạo Việt Nam vẫn
cò mơ màng về tình nghĩa quốc tế.
Trước khi khai mạc Đại hội VII, cố vấn Phạm Văn Đồng lúc này đã 85
tuổi, mắt gần như mù, tai nghễnh ngãng, dự cuộc họp của bộ chính trị
kiểm điểm về công tác đối ngoại, than thở rằng: '' ở Thành Đô chúng ta
đã sai lầm, để lại hậu quả xấu; ta đã hớ, ta đã dại. Tôi rất ân hận; lẽ
ra tôi không nên đi; tôi rất đau lòng''.
Chỉ có thủ tướng Đỗ Mười là hài lòng, thậm chí vui sướng về chuyến đi
Thành Đô. Từ giữa năm 1990, khi bàn đến nhân sự cho Đại hội VII, tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh đã hơn 76 tuổi ngỏ ý xin nghỉ, sẽ lên ngôi cố
vấn. Cuộc loại bỏ nhân vật cấp tiến Trần Xuân Bách năm 1989 như một vòi
nước lạnh dội lên cuộc ''đổi mới'' chỉ mới khởi động được hơn 2 năm.
Một trào lưu bảo thủ giáo điều cơ hội trỗi dậy với những nhân vật dẫn
đầu trong bộ chính trị khoá VI là: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng,
Nguyễn Đức Bình, Phạm Thế Duyệt, Đoàn Khuê, Nông Đức Mạnh. Mọi người
đều biết Tổng bí thư mới sẽ là ông Đỗ Mười, tuy đã 73 tuổi, và thủ
tướng mới sẽ là ông Võ Văn Kiệt.
Ông Đỗ Mười liền chọn ngay ông Lê Đức Anh, uỷ viên bộ chính trị, đại
tướng, Bộ trưởng bộ Quốc phòng làm người thân tín nhất. Từ cuối năm
1990, ông Đỗ Mười giao hẳn cho tướng Anh, nguyên tư lệnh ''quân tình
nguyện Việt Nam'' ở Kampuchia, phụ trách theo dõi việc giải quyết vấn
đề Kampuchia cùng với ban đối ngoại trung ương do Hồng Hà - một người
tin cẩn của ông Mười, làm trưởng ban. Trên thực tế ông Mười đặt bộ
trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và bộ ngoại giao trong đó có Vụ Trung
Quốc trong tình trạng ''ngồi chơi xơi nước''. Ông Thạch không được
Trung Quốc mời sang Thành Đô; đi theo 3 cụ lớn đến Thành Đô chỉ có
Chánh văn phòng trung ương Hồng Hà (lúc này Hồng Hà đã được Đỗ Mười hứa
cho chức Trưởng ban đối ngoại trung ương thay Hoàng Bích Sơn sắp về
nghỉ). Tướng Anh ngay từ cuối năm 1990 đã cùng Hồng Hà mời cơm riêng
Đại sứ Tàu Trương Đức Duy cũng như tiếp trợ lý ngoại trưởng Từ Đôn Tín
khi ông này ghé qua Hà Nội.
7- Chủ trương'' liên minh với Bắc Kinh'' được thực hiện
Nét nổi bật ở Đại hội VII trong đường lối đối ngoại của đảng CS là xích
gần lại với Bắc Kinh, ngả theo Bắc Kinh, sớm bình thường hoá với Bắc
Kinh, đi đến thắt chặt liên minh với Bắc Kinh, trước nguy cơ CNXH bị
thủ tiêu và phe XHCN bị tan vỡ.
Khác hẳn với Nghị quyết của Đại hội VI (tháng 12-1986) chủ trương quan
hệ đa phương, bình thừơng hoá với tất cả các nước, hợp tác trao đổi
kinh tế, giao hảo với tất cả các nước gần xa trên cơ sở bình đẳng tôn
trọng lẫn nhau, Đại hội VII lái hẳn sang hướng ưu tiên hòa giải và kết
liên minh trở lại với Trung Quốc XHCN, bởi lẽ Trung Quốc có chung một
chế độ XHCN mác-xít, đều lãnh đạo bởi một đảng CS theo học thuyết
Mác-Lénin, lại ở sát bên nhau, hiện cùng gặp những nguy cơ chung là mất
CNXH, mất độc quyền chuyên chính của đảng CS. Chủ trương này được gọi
gọn là ''giải pháp đỏ''.
Sau Đại hội VII (tháng 6-1991), nhất là sau khi Liên bang Xô Viết tan
rã và đảng CS Liên Xô bị giải thể (tháng 8 - 1991), hơn 200 báo cáo
viên của Ban tư tưởng và văn hoá trung ương được phái đi các địa
phương, các ngành để phổ biến nội dung Nghị quyết của Đại hội, đặc biệt
chú trọng lời căn dặn mỗi đảng viên phải ghi nhớ rằng trong quan hệ đối
ngoại tuy đảng nói công khai là bình thường hoá, quan hệ hữu hảo, làm
bạn với ''tất cả các nước'', những vẫn phải phân biệt 5 nấc bạn bè đậm
nhạt khác nhau:
a) trước hết là các nước XHCN, cùng chung chế độ chính trị, dù cho có
lúc có xung đột tạm thời, nay phải cùng nhau trụ lại trên tinh thần
quốc tế vô sản để vượt qua nguy cơ bị lật đổ, gốm có Việt Nam, Cuba,
Trung Quốc, Bắc Hàn, Lào;
b) các nước độc lập dân tộc tiến bộ từng chung hàng ngũ chống đế quốc, như Ấn độ, Angiêri, Aicập, Vénézuéla...
c) các nước độc lập dân tộc khác từng chống đối Việt Nam, sẽ có quan hệ
bình thường và hợp tác, như các nước trong tổ chức ASEAN: Thái lan,
Philippin, Inđônêxia, Malaisia, Singapour và Nam Hàn, Đài loan...
d) các nước tư bản nói chung: Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha... ở châu Âu, Canada, Úc, Tân Tây Lan, Nhật Bản...
đ) cuối cùng là Hoa Kỳ, kẻ thù cũ đang còn có âm mưu thực hiện ''diễn
biến hòa bình'', cần thận trọng và cảnh giác với nước này còn vì trên
đất Mỹ hiện có thế lực chống cộng ''nguy hiểm'' nhất trong cộng đồng
người Việt ở hải ngoại.
Tại Đại hội VII họp từ 24 đến 27-6-1991, ông Nguyễn Văn Linh lên hàng
cố vấn cùng với chủ tịch nước Võ Chí Công đã 78 tuổi, Đỗ Mười nhận chức
tổng bí thư, tướng Lê Đức Anh được phân công chờ cuộc họp Quốc hội giữa
năm 1992 để thay ông Công làm chủ tịch nước. Ngay sau Đại hội, Đỗ Mười
xếp tướng Anh ở vị trí số 2 trong đảng, phụ trách cả 4 mảng: chính
quyền, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhân vật số 3 trong đảng là
Đào Duy Tùng, ủy viên thường trực Ban bí thư, một nhân vật rất giáo
điều, bảo thủ, từng đòi ''đưa Trần Xuân Bách ra khỏi đảng CS''. Ngoại
trưởng Nguyễn Cơ Thạch, từng nhận ông Trần Xuân Bách về làm việc tại bộ
ngoại giao ngay sau khi ông bị khai trừ khỏi bộ chính trị và ban chấp
hành trung ương, từng cãi lại phái viên ngoại giao của Bắc Kinh Từ Đôn
Tín chiều 13-6-1990 rằng ''chúng tôi không nói dối, chính các vị đã
xuyên tạc'' và hai người đã từ biệt nhau bằng lời chào nhau chưa từng
có: ''chào ngài'', đến Đại hội VII ông Thạch cũng bị đưa ra khỏi bộ
chính trị, coi như ''món quà tặng'' cho Thiên triều. [2]
8- Từ đặc phái viên đến Đoàn đại biểu đặc biệt của Ban chấp hành trung ương
Ngay sau khi Đại hội VII kết thúc, Tổng bí thư mới Đỗ Mười gặp đại sứ
tàu Trương Đức Duy ngỏ ý cử ngay một Phái viên đặc biệt của đảng CS
Việt Nam sang Bắc Kinh thông báo về kết quả tốt đẹp của Đại hội. Bắc
Kinh tỏ ý hân hoan và nâng cấp lên thành ''Đoàn đại biểu đặc biệt của
Ban chấp hành trung ương'' dù cho Đoàn chỉ gồm có hai người: nhân vật
số 2 Lê Đức Anh, ủy viên thường trực bộ chính trị, phụ trách lãnh đạo
cả 4 mảng: chính quyền, quốc phòng, an ninh và đối ngoại và ủy viên ban
bí thư trung ương Hồng Hà, mới nhận chức Trưởng ban đối ngoại trung
ương đảng, rất gần với ông Mười và ông Anh. Đoàn được cả Giang Trạch
Dân, Lý Bằng niềm nở tiếp đón ngày 28-7-1991. Lê Đức Anh và Hồng Hà còn
hạ mình xin gặp thứ trưởng ngoại giao Từ Đôn Tín, người từng cãi, to
tiếng với ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch hơn một năm trước, để ''tạ lỗi''
(!) rằng: ''Năm ngoái khi đồng chí sang Việt Nam đã có những trục trặc
không vui, chúng tôi rất đau lòng ''(!)
Chỉ hơn 3 tháng sau, việc bình thường hoá giữa hai nước được ký kết vào
ngày 5-11-1991 tại Bắc Kinh, với sự tham gia của tổng bí thư Đỗ Mười và
thủ tướng Võ Văn Kiệt. Việc bình thường hoá diễn ra chỉ hơn 2 tháng sau
khi đảng CS Liên Xô bị giải thể, Liên bang Xô Viết tan rã, phe xã hội
chủ nghĩa mất đầu, rã rời. Lãnh đạo Việt Nam hí hửng nghĩ rằng may ra
có thể trụ lại bằng ''giải pháp đỏ'', tất cả các lực lượng cộng sản còn
lại, bất kể màu sắc ra sao, cùng nhau trụ lại quanh đảng CS Trung Quốc
to lớn, có 40 triệu đảng viên trên một nước rộng lớn có hơn 1 tỉ dân.
Việt Nam nhỏ bé mất chỗ dựa quý báu, toàn diện, vững chãi là Liên Xô,
nay tìm ngay ra một chỗ dựa mới khá là bề thế để có thể yên lòng. Họ
vẫn còn mơ màng khôi phục lại phe XHCN và phong trào CS quốc tế vang
bóng một thời, với người anh Cả mới là đảng CS Trung Quốc.
Thế nhưng đảng CS Trung Quốc không nghĩ vậy. Họ có cách nhìn tỉnh hơn,
thực tế hơn. Sau khi bình thường hoá với Việt Nam, hệ thống báo cáo
viên của họ tỏa đi khắp nước và giải thích qua báo, phát thanh địa
phương rằng Việt Nam vẫn không đáng tin, vẫn ôm mộng bá chủ Đông dương,
cho nên mối quan hệ Trung-Việt phải theo nội dung: ''thân mà không gần,
nhạt mà không xa, chống mà không đánh nhau'' (thân nhi bất cận, sơ nhi
bất viễn, tranh nhi bất đấu). Họ hiểu rõ tâm lý dân Việt, tinh thần
chống bành trướng phương Bắc trong nhân dân, trong quân đội và trí
thức, cũng như tinh thần giáo điều ỷ lại mong muốn liên minh với họ của
một nhóm lãnh đạo đảng CS Việt Nam giao động, nao núng trước thời cuộc.
Họ rắp tâm lôi kéo, mua chuộc nhóm này không phải để khôi phục phe XHCN
và phong trào CS quốc tế mà chỉ nhằm phục vụ cho dã tâm bành trướng của
họ.
Ông Nguyễn Cơ Thạch từng phân tích sâu sắc hai mặt của nhóm lãnh đạo
Trung Quốc: mặt cách mạng, cộng sản, XHCN, tinh thần quốc tế... và mặt
bá quyền, bành trướng, xâm lược, dân tộc nước lớn, và cho rằng đối với
Việt Nam, Đông Dương và Đông Nam Á, Trung Quốc đang ''biểu diễn mặt thứ
hai là mặt chính, mặt thật''. Trên tinh thần ấy, ông Thạch hạ một nhận
định chua cay: ''việc bình thường hoá Việt - Trung tháng 11-1991 như đã
diễn ra, sự thật là bắt đầu một thời kỳ phụ thuộc hoá !''. Chúng ta
nghĩ đến thời kỳ Bắc thuộc nghìn năm thời xa xưa. Nay nó khởi đầu lại
từ Đại hội VII (1991), qua 3 đại hội, đến sau Đại hội X (2006) rồi, gần
20 năm nay vẫn chưa chấm dứt.
9- Cơn thèm bành trướng sau bình thường hoá tháng 11-1991
Sang năm 1992, Bắc Kinh lại có thêm nhiều tin mừng. Sứ quán Trung Quốc
trên đường Hoàng Diệu (dinh Hoàng Cao Khải cũ, cực kỳ tráng lệ) đóng
cửa từ năm 1978, hé mở từ năm 1990, sau khi bình thường hoá giữa hai
nước từ tháng 11-1991 đước mở rộng cửa, xe cộ ra vào tới tấp, cờ 5 sao
lớn được dựng lên, các dãy nhà chính của Sứ quán và cơ quan lãnh sự đều
sơn cửa, tường quét vôi mới.
Theo kể lại của nguyên Thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ hồi ấy,
trong phiên họp Hội đồng chính phủ đầu năm 1992, trưởng ban đối ngoại
trung ương Hồng Hà (cũng là ủy viên Ban bí thư trung ương) phổ biến cho
các bộ trưởng rằng theo phân công của đảng, từ nay ''hai đồng chí Lê
Đức Anh và Hồng Hà phụ trách việc thương lượng về giải pháp cho vấn đề
Kampuchia; trong quan hệ với Trung Quốc, từ nay các đồng chí có thể
quan hệ thẳng với anh Trương Đức Duy, không cần qua sứ quán ta ở Bắc
Kinh''. Ý Hồng Hà muốn nói là đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đã trở
nên thân thiết như ngưòi anh em của ta (gọi Trương Đức Duy bằng ''anh''
lúc này còn thân hơn là ''đồng chi''). Hơn nữa, lúc này chưa có ai thay
ông Nguyễn Cơ Thạch làm bộ trưởng ngoại giao; còn đại sứ Việt Nam tại
Bắc Kinh Đặng Nghiêm Hoành đã bị gọi về sau khi thứ trửỏng Từ Đôn Tín
mách với Lê Đức Anh hồi tháng 7-1991 rằng '' đại sứ Hoành luôn tránh
mặt tỏ ra không muốn gặp chúng tôi''.
Quốc hội khoá IX họp tháng 6-1992 cử tướng Lê Đức Anh vào chức Chủ tịch
nước Cộng hòa XHCN thay ông Võ Chí Công lên hàng Cố vấn Ban chấp hành
trung ương. Trên thực tế, chủ tịch Anh có thực quyền rộng lớn hơn cả
tổng bí thư Đỗ Mười, vì ôm cả 4 mảng chính quyền, quân đội, an ninh và
đối ngoại.
Cặp Mười + Anh gắn bó, ăn ý trong việc kết liên minh với Trung Quốc
nhằm trụ vững trước nguy cơ lớn ''chệch hướng XHCN'' và ''diễn biến hòa
bình''. Quanh hai nhân vật Mười, Anh dẫn đầu trong kết thân với Bắc
Kinh là các vị sau đây trong bộ chính trị: Đào Duy Tùng, thường trực bộ
chính trị; tướng Đoàn Khuê bộ trưởng Quốc phòng; Nguyễn Đức Bình, phụ
trách mặt lý luận, tư tưởng ý thức hệ; Phạm Thế Duyệt bí thư thành ủy
Hà Nội. Bộ trưởng ngoại giao mới được cử vào tháng 6-1992 Nguyễn Mạnh
Cầm khi ấy mới là uỷ viên trung ương, thứ trưởng bộ ngoại thương, đến
Hội nghị trung ương 6 khoá VII tháng 11-1993 được bổ sung vào bộ chính
trị, cũng là một nhân vật được đào tạo từ Trung Quốc.(Ông Trần Quang Cơ
nhận xét rằng Nguyễn Mạnh Cầm sở dĩ được tuyển lựa trong danh sách gồm:
Vũ Oanh, Vũ Khoan, Hoàng Bích Sơn, Nguyễn Dy Niên, Nguyễn Mạnh Cầm chỉ
vì ông Cầm không có một ''tiền sự'' nào làm phật ý Trung Quốc.
Tình nghĩa Trung - Việt được khôi phục tuy không còn đậm đà như trước
liền kích thích mạnh cơn thèm bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam của
thiên triều Bắc Kinh. Họ không bỏ qua thời cơ khi nhóm lãnh đạo chóp bu
ở Hà Nội đã tình nguyện chọn họ làm chỗ dựa, làm anh Cả mới, làm ông
thầy mới. Bắc Kinh bày ra ngay một trận ''lấn đất'' quy mô trên đất
liền, trên lãnh hải, trên cả vùng quần đảo phương Nam thật nhanh, gọn,
êm, bằng ngòi bút ngoại giao. Mao chẳng đã dạy bài học chiến lược: khi
nào địch hay đối phương lùi là ta phải tiến ngay.
Lập tức cuộc đàm phán về biên giới, - bị bỏ dở từ những năm 1958, rồi 2
cuộc đàm phán từ 15-8 đến 22-11-1974 và từ tháng 10-1977 đến tháng
6-1978 đều ở Bắc Kinh không đi đến một thỏa thuận nào -, liền được nối
lại ngay từ giữa năm 1992, để đi đến ngày 19-10-1993, hai nước ký
''Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới
lãnh thổ hai nước''.
Từ năm 1995, ba diễn đàn đàm phán Việt - Trung cấp chuyên gia và một
diễn đàn đàm phán cấp Chính phủ được mở ra nhằm chuẩn bị cho các Hiệp
định về biên giới trên bộ, trong Vịnh Bắc bộ và trên Biển Đông.
Hai trưởng ban biên giới cũ là ông Lưu Văn Lợi và ông Lê Minh Nghĩa
nhận xét rằng suốt 20 năm trước các cuộc đàm phán về biên giới với
Trung Quốc gay go, khó khăn, dậm chân tại chỗ, đều bế tắc thì nay mọi
sự trở nên trôi chảy, chóng vánh lạ thường!
Sau Đại hội VIII (từ 28-6 đến 1-7-1996), công việc của các đoàn đàm
phán còn thuận lợi hơn nữa. Tại Đại hội, nhóm lãnh đạo mặn mà với Bắc
Kinh chiếm những vị trí quyết định. Chủ tịch Lê Đức Anh đọc diễn văn
khai mạc Đại hội. Tổng bí thư Đỗ Mười đọc báo cáo chính trị. Các bộ
trưởng then chốt Đoàn Khuê (quốc phòng), Nguyễn Mạnh Cầm (ngoại giao),
Lê Minh Hương (an ninh), và các ủy viên bộ chính trị phụ trách tư tưởng
Nguyễn Đức Bình... đều lần lượt sang Bắc Kinh trình diện và hứa hẹn học
kinh nghiệm đàn anh. Mối quan hệ 16 chữ vàng (!) được cam kết: ''Láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai''. Được biết 16 chữ vàng này nguyên thủy là do phía Trung Quốc đưa
ra, từ chữ Hán, đọc như sau: ''Mục Lân Hữu Hảo, Toàn Diện Hợp Tác,
Trường Kỳ Ổn Định, Diện Hướng Vị Lai''.
Thế là Bản Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được long trọng ký ở Hà
nội ngày 30 tháng 12 năm 1999, chỉ 1 ngày trước khi kết thúc năm 1999.
Chỉ một năm sau, Bản Hiệp ước phân định trong Vịnh Bắc bộ giữa 2 nước
được long trọng ký kết ở Bắc Kinh ngày 26-12-2000, chỉ 5 ngày trước khi
năm 2000 và thế kỷ 20 kết thúc.
Về 2 bản Hiệp ước Việt-Trung nói trên, hơn 8 năm nay, đã có rất nhiều
bàn tán, bình luận trong và ngoài nước, với những nhận định trái ngược
nhau. Giới lãnh đạo ở Hà Nội, giới truyền thông trước hết là báo Nhân
Dân, các ông Lê Công Phụng nguyên trưởng ban biên giới, thứ trưởng
ngoại giao Vũ Dũng, người phát ngôn bộ ngoại giao Lê Dũng đều khẳng
định rằng nội dung ký kết hai bản Hiệp ước nói trên là hợp lý, thực tế,
công bằng, rằng phía ta không bị lép vế, ăn hiếp, không bị mất đất,
thiệt thòi gì cả, ngay ở các điểm Ải Nam quan (còn gọi là Hữu nghị
quan), Bản Giốc (Cao Bằng) hay Lão Sơn (Hà Giang) ta cũng không bị lấn
ép gì cả. Ngược lại, một số nhà nghiên cứu như ông Trương Nhân Tuấn,
ông Trần Đại Sĩ ở Pháp, tiến sĩ ngành sử học Nguyễn Nhã ở trong nước,
một số nhà báo, nhà đấu tranh cho dân chủ quan tâm đến thời cuộc và mối
quan hệ Việt - Trung cho rằng ở các điểm trên đây phía ta đã bị lấn đất
rõ rệt, rằng trên đất liền phía ta đã để Trung Quốc xà xẻo tổng cộng từ
200, đến 600, thậm chí đến 850 km vuông, và có thể hơn nữa, từ Quảng
Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng lên đến Lào Kay, Hà Giang và Hoàng Liên Sơn.
Ở trong Vịnh Bắc Bộ, so với Hiệp ước Pháp - Thanh năm 1887 (qui định
ranh giới Việt - Trung theo đường thằng đứng kinh tuyến Bắc Nam đi qua
điểm 105°43' Đông), bản Hiệp ước năm 2000 chia lại theo một đường cong
tạo nên bởi 21 điểm nằm giữa đường cơ sở của 2 bên; theo kiểu chia mới
này, phía Việt Nam bị mất khoảng 11.930 km vuông vùng biển so với
trước. Vậy mà Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên ký bản Hiệp ước này
khoe rằng đây là ''thắng lợi lớn'' của ta. Nhà nghiên cứu Trương Nhân
Tuấn nghiên cứu từng điểm một của 21 điểm khẳng định rằng từ điểm 9 đến
điểm 10 và các điểm từ 12 đến 19 thuộc vùng kinh tế độc quyền và thềm
lục địa, đều chia không đều và đều thiệt cho phía Việt Nam.
Có nhiều nghi ngờ về sự khuất tất, nhẹ dạ, thậm chí về sự nhân nhượng
thỏa hiệp từ người lãnh đạo đến người đàm phán trong quá trình thương
lượng Trung Việt, dựa vào một loạt câu hỏi như sau:
a) vì sao không có thông tin cho nhân dân, công luận, báo chí biết về
quá trình thương lượng, để tạo nên sự ủng hộ đối với ta, sức ép với đối
phương, như từng có trước kia, khi thương lượng với Pháp, với Mỹ?
b) vì sao từ năm 1994 đến năm 2000, qua 14 kỳ họp Quốc hội, chính phủ
không hề thông báo cho các đại biểu của nhân dân biết gì về diễn tiến
của đàm phán; những vấn đề gặp phải và hướng giải quyết?
c) vì sao việc Quốc hội thông qua hai Hiệp định trên lại không bình
thường, không có bản tường trình của Chính phủ, không có bản tường
trình của Uỷ ban đối ngoại của Quốc hội, cũng không có một buổi chất
vấn nào của Quốc hội và trả lời của Chính phủ về vấn đề rất hệ trọng
này?
d) vì sao Hiệp ước về phân giới trong Vịnh Bắc bộ được ký từ ngày
26-12-2000 cùng với Nghị định thư về đánh cá chung trong Vịnh Bắc bộ,
mà mãi đến kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XI ngày 15-6-2004, nghĩa là 4
năm rưỡi sau, mới được thông qua? sao lại có sự không bình thường như
thế?
đ) vì sao nội dung bản Hiệp ước phân định biên giới trên bộ Việt-Trung
đã được phổ biến dù rất chậm trên báo và trên báo điện tử Nhân Dân
online, nhưng cho đến nay tập bản đồ chi tiết kèm theo, - được coi như
bộ phận cấu thành chính thức của bản Hiệp ước - , vẫn còn được giữ kín
như bưng ? báo giấy và báo điện tử đều im lặng ?
e) theo báo chí Việt Nam và Trung Quốc kể lại, trong năm 1998 và 1999,
khi gặp tổng bí thư Lê Khả Phiêu ở Bắc Kinh, tổng bí thư Giang Trạch
Dân đều thúc giục rằng: việc đàm phán Việt - Trung không nên để kéo
dài, nên sớm kết thúc, việc ký Hiệp ước trên bộ cần thực hiện trong năm
1999, và việc ký kết Hiệp định trong Vịnh Bắc bộ nên thực hiện trong
năm 2000, nghĩa là giải quyết xong trong thế kỷ 20 này. Ông Phiêu đã
nhanh nhẩu đồng ý, và phía Trung Quốc ghi nhận điều ấy như một cam kết
ép buộc các đoàn đàm phán phải thực hiện bằng được, trên thực tế là ép
đoàn Việt Nam phải nhượng bộ những đòi hỏi của Trung Quốc. Quả nhiên
việc ký hai Hiệp ước đã diễn ra vào sát những ngày cuối năm 1999 và
2000, Hiệp ước về đất liền vào ngày 30-12 là 1 ngày trước cuối năm và
Hiệp ước về Vịnh Bắc bộ được ký chỉ 5 ngày trước khi thế kỷ 20 kết
thúc.
Có ai đi đàm phán lại bị đối phương ép về thời gian chặt chẽ và trắng
trợn như thế, dù cho có thể còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết.
Chính sự dễ dãi nhẹ dạ này của tổng bí thư Lê khả Phiêu đã bị Đỗ Mười
và Lê Đức Anh viện ra để kết án Phiêu rất nặng là ''bán đất, bán biển
cho Trung Quốc'', ngay trước khi họp Đại hội IX (tháng 4-2001) và để
đưa Nông Đức Mạnh lên thay Phiêu làm tổng bí thư trong Đại hội IX. [3]
Hiện nay việc cắm mốc biên giới trên bộ đang được khẩn trương tiến
hành, theo thỏa thuận của hai bên, sẽ hoàn thành vào cuối năm 2008.
Cùng với việc cắm mốc, tập bản đồ tỉ mỉ đang được vẽ theo đúng thực địa
và kèm theo Nghị định thư cuối cùng và sẽ là bộ phận cấu thành của toàn
bộ Hiệp ước. Lúc ấy hai bên sẽ phải in rộng rãi hàng nghìn bản đồ ấy
cho các thôn xã ở cơ sở và các ngành hành chính, quân sự, an ninh, hải
quan, nông nghiệp, thương mại, giao thông, thuế quan, giáo dục, y tế,
văn hoá, du lịch ... Lúc ấy so sánh với bản đồ cũ thời thuộc Pháp còn
lưu ở kho lưu trữ Aix-en-Provence (Pháp), với bản đồ mới sẽ được mạng
Google Earth vẽ ra với những phương pháp hiện đại chuẩn xác nhất, mọi
người có thể so sánh và thấy rõ phía Việt Nam có bị mất đất hay không,
mất ở những chỗ nào, mất bao nhiêu, không ai có thể cãi liều, cãi xoá
được.
(còn tiếp )
Bùi Tín
Paris, tháng 2 - tháng 4-2008
(Mới quý vị đọc tiếp phần 2 ở đây)
[1] Hồ Chí Minh : sự tước đoạt của lòng yêu nước, luận văn của nhà triết học Pháp Jean-François Rével
[2] Xem tập Hồi ức và Suy nghĩ của Trần Quang Cơ, công bố ngày 23-1-2001, hoàn chỉnh ngày 22-5-2003 , hơn 60 trang
[3] Đọc hồi ký của Nguyễn Chí Trung, thiếu tướng, thư ký riêng của Lê Khả Phiêu đề ngày 21-7-2002.
|