Giáo sư Tiến
sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Web: http://vietTUDAN.net/11604/index.html
23.10.2008 Trong ít tuần nay, nhân cuộc khủng hoảng
Tài chánh, các Chính quyền bỏ vốn ra để cứu
vớt Lãnh vực Ngân Hàng/Tài chánh. Có hai khuynh hướng
thuộc giới Chính trị khi Nhà Nước bỏ ra những
số tiền khổng lồ:
1) Chính
trị khuynh hướng xã hội thì muốn sự can thiệp
trực tiếp và lâu dài của Nhà Nước vào Lãnh vực
Ngân Hàng/ Tài chánh.
2) Chính trị khuynh hướng
tự do thì muốn những Chương trình cứu vớt
chỉ là trợ lực giai đoạn cho Lãnh vực Ngân Hàng/
Tài chánh trong lúc ốm bệnh, rồi sau đó Nhà Nước
rút về vị trí của mình.
Dù
là với khuynh hướng xã hội đi nữa, thì quyền
lực của Nhà Nước cũng chỉ hạn định
ở món tiền của mình bỏ vào, nghĩa là những
quyền quyết định Tài chánh/ Kinh tế vẫn được
đo lường bằng sức mạnh đồng vốn
bỏ vào. Điều này khác với những quyết định
hoàn toàn có tính cách Chính trị ở Việt Nam với thể
chế độc tài độc đảng.
Can thiệp nắm mạch máu Kinh tế sản xuất tại Việt Nam
Trong
hai ngày 17-18.10.2008, tại cuộc Hội thảo được
tổ chức tại Đại học PRINCETON Hoa kỳ,
vấn đề Tài chánh và Ngân Hàng tại Việt Nam trở
thành đề tài chính. Diễn giả chính của buổi
hội thảo, tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn, Phó
Hiệu Trưởng Trường Đại Học Kinh Tế,
thuộc Đại Học Quốc Gia Hà Nội, nhận định,
rằng “thị trường tài chánh Việt Nam đặt
nền tảng trên hệ thống ngân hàng,” phát triển nhanh,
nhưng phần vốn Nhà Nước vẫn chiếm tỷ
trọng lớn.
Ông
nói: “Hệ thống ngân hàng Việt Nam cung cấp hơn 20%
vốn cho toàn bộ lượng đầu tư xã hội
trong nền kinh tế Việt Nam. Số lượng ngân hàng
hoạt động tăng rất nhanh, từ 9 đơn
vị trong năm 1991, tăng lên đến con số 80
trong năm 2008.”
Mặc
dầu phát triển nhanh, tính chất của hệ thống
ngân hàng Việt Nam vẫn mang tính quốc doanh, vì tỷ lệ
ngân hàng có vốn nhà nước hoặc do nhà nước làm
chủ, vẫn chiếm đa số.
Cho
đến nay, mặc dầu Nhà Nước Việt Nam chỉ
làm chủ 6 ngân hàng, nhưng số vốn thuộc Nhà Nước
trong toàn bộ hệ thống lại chiếm đến hơn
67%.
Nếu
tính trong khu vực ngân hàng cổ phần, thì phần lớn
trong số 34 ngân hàng loại này đều do Nhà Nước
thành lập hoặc cung cấp vốn.
Tham
gia đóng góp ý kiến tại buổi hội thảo, tiến
sĩ Regina M. Abrami, giáo sư môn Khoa Học Chính Trị, Khoa
Quản Trị Kinh Doanh thuộc đại học Harvard, nói
rằng vai trò của Nhà Nước trong thị trường
VN không được phân định rõ ràng.
Câu
hỏi đặt ra, là Nhà Nước đóng vai trò giám sát
hay vai trò cổ đông góp vốn? Từ câu hỏi này, người
ta đặt lại vấn đề của tính minh bạch.
Ví dụ cụ thể là Tổng Công Ty Đầu Tư Vốn
Nhà Nước, SCIC. Trong khi SCIC có nhiệm vụ mua lại
càng nhiều càng tốt các công ty quốc doanh, thì trong một
nghĩa nào đó, Tổng Công Ty này đóng cả hai vai trò,
vừa là người giám sát, vừa là người góp vốn.
Hiện
nay, SCIC có trong danh mục của mình hơn 900 công ty con, thuộc
Nhà Nước, và khoảng 200 tỷ đồng tài sản.
Giáo
sư Abrami, một chuyên gia về Việt Nam và Trung Quốc,
nhận xét, rằng: “Trong khi Việt Nam thúc đẩy tính
minh bạch cùng quá trình giám sát các cơ chế tài chánh, thì Nhà
Nước đã thực hiện nhiều cách thức làm
phát sinh sự phức tạp.”
Theo
thông tin mà tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn cho biết,
thì hệ thống ngân hàng, vai trò “cột sống” của thị
trường tài chánh Việt Nam, “phát triển nhanh” trong “môi
trường thiếu tính cạnh tranh.”
Tổng
quát những nhận định này cho thấy rằng Kinh
tế VN định hướng XHCN có thể nói là nằm
trong tay Nhà Nước. Mà Nhà Nước ở đây là đảng
CSVN độc tài. Hệ thống Ngân Hàng/Tài chánh, mạch máu
của Kinh tế có thể gọi là hệ thống Ngân Hàng/Tài
chánh Mafia nhóm đảng, liên hệ gia đình của những
người nắm quyền đảng. Tỉ dụ con gái
của Nguyễn Tấn Dũng nắm một số vốn
đầu tư khá lớn do Nhà Nước cung cấp.
Theo
phân tích của Bà Frnacoise NICOLAS về cuộc Khủng hoảng
Tài chánh Á châu năm 1997, thì một hệ thống Ngân Hàng/ Tài
chánh như vậy là nguồn của Khủng hoảng.
Can thiệp trực tiếp Nhà Nước
Những
Tổng Công ty Nhà Nước giữ những độc quyền
Xuất Nhập cảng hoặc giữ những Quotas ưu
đãi về những hàng hóa tiêu thụ lớn. Tình trạng
này phát sinh ra việc nhường bán Quotas từ những Tổng
Công ty Nhà Nước có đặc quyền. Đây là lý do làm
mất sự sinh động và hiệu lực thương
mại của Thị trường. Hã lấy hai tỉ dụ:
Xuất cảng Gạo và Nhập cảng Dầu Lửa mà
Dân chúng Việt Nam đang bị thiệt thòi hiện nay.
Những
Tổng Công ty Nhà Nước có những đặc quyền
lấy Gạo xuất cảng. Chúng tôi đã có dịp nói
chuyện với Tổng Công ty TIGIFOOD Tiền Giang và được
biết rằng Nhà Nước không có những Quỹ điều
hợp Lúa Gạo tương xứng cho Nông dân, thiếu điều
kiện Silo dự trữ khiến cho Thị trường
dễ bị ếm giá cho đầu cơ. Hiện nay, nông
dân được mùa, nhưng vấn đề là không bán được.
Ngày
19.10.2008, TS LÊ VĂN BẢNH - viện trưởng Viện
Lúa ĐBSCL tóm tắt tình hình ứ đọng lúa gạo như
sau: “Lúa gạo đang tồn đọng trong thời gian dài
và chưa biết khi nào giải phóng hết đang làm hàng
triệu nông dân ĐBSCL điêu đứng. Trong chuyện này
ngoài "lỗi" của giống lúa IR 50404 còn có trách nhiệm
của DN xuất khẩu lúa gạo, của Nhà nước
và cả người nông dân trồng lúa.“
Chúng
tôi đã có dịp quan sát Thị trường tiêu thụ gạo
ở Phi châu như Brazaville, Bénin, Lagos và thấy vắng bóng
Gạo của Việt Nam, mặc dầu những xứ này
chuộng ăn gạo của Việt Nam với 25% broken vì
giá hạ thuộc tầm mua của họ.
Việc
Nhập Cảng Dầu Lửa cũng nằm trong tay Nhà Nước.
Hiện nay Giá Dầu Thế giới xuống mạnh, nhưng
Nhà Nước độc quyền cũng không điều
chỉnh giá xuống cho Dân.
Tóm
lại khi Nhà Nước nắm độc quyền hay giữ
Quotas, thì vấn đề Xuất Nhập cảng không có cạnh
tranh và lưu hành sinh động.
Can thiệp trực tiếp Nhà Nước
Về Giá cả Thị trường tiêu thụ hàng ngàyï
Khuynh
hướng của một Nhà Nước Xã hội dễ
can thiệp trực tiếp vào giá cả tiêu thụ hàng ngay
của Thị trường nhân danh bào vệ người
nghèo. Nhà Nước dễ ấn
định Giá trần và Giá sàn cho hàng hóa, nhất là những
hàng hóa tiêu thụ đại chúng.
=> Đinh Giá trần (Prix
plafond)
Khi
giá một nhu yếu phẩm có đà tăng lên, nghĩa là
phía Cầu tăng lên hơn phía Cung, Nhà Nước can thiệp
trực tiếp vào Thị trường bằng cách định
một Giá trần, nghĩa là giá bán không được tăng
lên trên Giá trần đã do Nhà Nước ấn định.
Nhà Nước lấy lý do là mình phải bênh đỡ cho
người nghèo. Hâu quả của việc can thiệp này
ra sao ?
* Chính Nhà Nước đã tạo
ra một tình trạng Cầu luôn luôn lớn hơn Cung và nhữ
vậy trên Thị trường tiêu thụ, giá cả luôn luôn
ở trong tình trạng phải cao hơn Giá trần.
* Tình trạng này khiến cho
con buôn tìm cách đầu cơ làm cho Cung càng khan hiếm hơn
để họ bán chợ đen với giá cao hơn nữa. * Để có thể kiểm
soát được đầu cơ và bán chợ đen của
con buôn, Nhà Nước buộc lòng phải chi tiêu tốn kém
cho hệ thống kiểm soát. Việc chi tiêu tốn kém xã
hội này lại lấy từ tiền thuế của Dân.
Nếu con cháu đảng làm đầu cơ, thì ai dám kiểm
soát.
Như
vậy vấn đề đặt ra là việc Nhà Nước
định Giá trần có ích lợi cho Dân không hay lại làm
cho Dân vẩn sống trong tình trạng tăng giá do đầu
cơ và chợ đen, rồi phải đóng thuế chi tiêu
xã hội cho hệ thống kiểm soát.
Trong
thời YELSIN tại Nga, vì giữ Giá trần mà Moscou khan hiếm
thịt, dân chúng nối đuôi đợi hàng dài trước
cửa tiệm. YELSIN đã quyết định thả lòng
giá. Giá thịt lên vọt, nhưng dần dần lại xuống
và còn xuống thấp hơn Giá trần (Prix plafond) mà Nhà Nước
đã định trước đây vì lượng Cung tràn
vào Thị trường.
=> Giá sàn (Prix plancher)
Đây
là trường hợp giá cả của mặt hàng tụt
xuống vì lý do ếm giá của phía mua chẳng hạn. Nhà
Nước can thiệp vào để định giá sàn, nghĩa
là không cho giá xuống thấp hơn với mục đích
trợ lực cho phía Cung, nghĩa là cho phía sản xuất
tiếp tục hoạt động. Nếu giá tiếp tục
mang khuynh hướng xuống và để bảo vệ
phía sản xuất Cung, Nhà Nước lại cũng phải
lấy tiền thuế của Dân để bù trừ cho những
thua lỗ của những Công ty sản xuất. Nếu đây
là những Công ty quốc doanh, thì Nhà Nước phải trường
kỳ hỗ trợ (Subventions) để những Công ty này
khỏi chết.
Trong
cả hai trường hợp Giá trần và Giá sàn, chính người
Dân đóng thuế phải chịu cho những Chi tiêu xã hội.
Vì vậy, không thể nói được rằng việc
can thiệp trực tiếp của Nhà Nước là để
bênh đỡ cho người nghèo.
Giáo sư Tiến
sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
|