(Cung đình Cộng sản Hà Nội từ 1991 đến 2008)
Bùi Tín
V. Cuộc đấu tranh vạch mặt hoạt động tệ hại của Phủ Chúa
Cần nói thật rằng cuộc đấu tranh vạch mặt phản dân hại nước của Phủ
Chúa, tay sai bành trướng Bắc Kinh chưa được mạnh. Cuộc đấu tranh ấy
còn quá yếu.
Trước hết vì chúng hoạt động lén lút, không hợp pháp. Chúng có mà
không, không mà có. Nên có khi chúng bị người dân gọi là MA, ghép 2 chữ
M (Mười) và A (Anh). Nhân dân lại quen bị bưng bít lâu ngày; nỗi sợ
cường quyền tuy có giảm vẫn còn dai dẳng. Thế nhưng sự chống đối vẫn
tồn tại. Thà có còn hơn không có.
1- Bức thư của ông đại tướng bị chơi xấu
Bức thư dài 7 trang của tướng Võ Nguyên Giáp đầu năm 2004 đã được nhiều
người biết. Đây là phản ứng có phần chậm với cú chơi xấu trước đó của
tướng Lê Đức Anh. Từ hồi Đại hội VII (1991), tướng Anh đã dùng nhân vật
Sáu Sứ cùng nhân vật Năm Châu từ trong Nam ra Hà Nội tiếp xúc với tướng
Giáp và một số nhân vật thân cận, mật ghi trong 16 băng ghi âm nhằm kết
tội tướng Giáp về hoạt động chia rẽ và lật đổ. Sau đó, như trên đã nói,
tướng Anh dùng Đặng Đình Loan đi các địa phương kể lể về 7 tội của
tướng Giáp. Tướng Giáp cố nén tức giận, chờ đến ngày 3-1-2004 mới lên
tiếng qua bức thư gửi Bộ chính trị, công khai gửi rộng rãi cho báo chí
trong nước. Mục đích chính của tướng Giáp chỉ là thanh minh cho cá nhân
mình, nhằm bảo vệ danh dự và uy tín cá nhân, nhưng qua đó nhiều vấn đề
cực kỳ nghiêm trọng được phơi bày, như việc thành lập sai nguyên tắc và
sự lộng hành của Tổng cục 2, vụ án Sáu Sứ và Năm Châu. Tướng Giáp chọn
thời điểm này vì hơn 100 ngày nữa sẽ kỷ niệm trọng thể 50 năm chiến
thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2004), tiếng tăm cá nhân tướng Giáp sẽ được
đánh bóng và đề cao, trong khi tướng Anh đã mất chức ''cố vấn trung
ương'' từ tháng 12- 1998, không còn vai vế nào trong cơ chế.
Một loạt tướng tá lên tiếng ủng hộ tướng Giáp, lên án tướng Anh, trước
hết là thượng tướng Nam Khánh, từng là phó chủ nhiệm tổng cục chính
trị, phụ trách công tác giáo dục chính trị cho Quân đội. Rồi đại tướng
Chu Huy Mân, đại tướng Nguyễn Quyết, các thượng tướng Hoàng Minh Thảo,
Lê Ngọc Hiền, Phùng Thế Tài, các trung tướng Lê Tự Đồng, Phạm Hồng Sơn,
Đặng Vũ Hiệp, cho đến tướng anh hùng ngành công an Nguyễn Tài đều cất
tiếng hoà theo đòi hỏi của tướng Giáp, vạch mặt sự lừa dối phạm pháp
của Lê Đức Anh, còn yêu cầu đưa ra xét xử theo pháp luật. Sau Đại hội
X, cuộc họp Trung ương ra quyết định lập một Ban kiểm tra liên ngành
gồm có đại diện bộ chính trị, ban kiểm tra trung ương, ban bảo vệ đảng
trung ương, bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân
dân tối cao. [8]
2- Ai cứu nguy cho Phủ Chúa ?
Ban kiểm tra liên ngành do bộ trưởng Công An Lê Hồng Anh cầm đầu trình
ra bộ chính trị dự thảo báo cáo điều tra về những tố cáo của tướng Giáp
và một số tướng trên đây. Bức thư của cụ Phạm Văn Xô gần trăm tuổi, -
sáng lập viên đảng CS Đông dương duy nhất còn sống, am hiểu rõ về Lê
Đức Anh, từ Sài Gòn gửi ra là thêm một bằng chứng hiển nhiên về tội lỗi
của Lê Đức Anh. Nếu bản báo cáo điều tra này được đưa ra trước ban chấp
hành trung ương khoá X gồm 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự
khuyết thì sẽ cực kỳ tai hại cho đương sự, còn tai hại về nhiều mặt cho
đảng.
Theo tiết lộ từ Văn phòng trung ương đảng, chính tổng bí thư Nông Đức
Mạnh là người đầu tiên có ý kiến đề xuất là ''khoanh vấn đề này trong
phạm vi bộ chính trị'', ém nhẹm Bản báo cáo của Ban kiểm tra liên
ngành, chỉ báo cáo tóm tắt cho các vị trung ương là:
- đương sự, đồng chí Lê Đức Anh, quả là có một số khuyết điểm khi khai lý lịch của mình, nay đã bổ cứu cho chính xác;
- những vấn đề ấy thuộc về lịch sử, từ 1945 đến nay đồng chí Anh đã
hoàn thành xuất sắc mọi chức vụ cao trong quân đội và nhà nước và nay
đã về hưu;
- việc chấn chỉnh Tổng cục 2 và cả bộ máy tình báo-an ninh-phản
gián-bảo vệ nội bộ đang được thực hiện và sẽ báo cáo với trung ương.
Trong đảng CS, nhiều người biết rằng ông Mạnh trở thành nhân vật số 1
không phải do khả năng lãnh đạo, sự hiểu biết, tài nói viết và suy
nghĩ. Ông lên cao hoàn toàn dựa vào cái may của hoàn cảnh. Chính ông
Mười và ông Anh trong Đại hội IX (2001) đã đưa ông Mạnh lên tổng bí thư
sau khi cân nhắc với các ông Trần Đức Lương, Nguyễn Phú Trọng, Phan
Diễn, Nguyễn Mạnh Cầm. Lúc ấy nhiều người nghĩ rằng ông Mạnh chỉ là
nhân vật đệm, một nửa nhiệm kỳ hay cùng lắm là một nhiệm kỳ. Đến Đại
hội X (tháng 4-2006) ông Mạnh đã mê say cái ghế của mình, vừa lúc Phủ
Chúa lâm nguy cần một người thân tín bên Cung Vua. Ông Mười và ông Anh
qua các nhân vật thân tín trong bộ chính trị và trung ương liền vận
động để giữ ông Mạnh thêm một thời gian, mặc dù lúc ấy ông Mạnh đã 64
tuổi, nghĩa là quá mức tuổi qui định là dưới 60 tuổi để vào bộ chính
trị. Qua Đại hội X, ông Mạnh không thể quên cái ơn tác thành của Phủ
Chúa đối với mình. Thế là ông Mười và ông Anh khỏi lo khi cả 4 nhân vật
trong bộ chính trị gần gũi nhất với hai ông là các ông Trần Đức Lương,
Phạm Văn Trà, Trần Đình Lương và Nguyễn Khoa Điềm đều phải về hưu cùng
một lúc. Việc tranh thủ được ông Mạnh đứng hẳn về phía mình là rất có
lợi cho Phủ Chúa, vì có gì hơn là được nhân vật số 1 thông báo thường
xuyên kịp thời mọi tình hình nội bộ cơ mật nhất.
3- Bão nổi từ Hoàng Sa và Trường Sa
Từ cuối năm 2007, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa trở thành đề tài nóng
trong quan hệ Việt Trung, trong khu vực Đông Nam Á. Theo mưu đồ được
chuẩn bị có bài bản, Bắc Kinh muốn khẳng định chủ quyền trên vùng biển
và các quần đảo ở phía Nam, nơi có tiềm lực dầu mỏ và khí đốt ngày càng
được xác định là dồi dào, nơi có hành lang vận chuyển trên biển nhộn
nhịp vào loại nhất thế giới, nơi Trung Quốc có thể bành trướng rộng
xuống vùng xích đạo nhằm khống chế toàn vùng Đông Nam Á.
Từ việc xây dựng sân bay, lô cốt, pháo đài, dàn khoan, doanh trại, trạm
đo thời tiết trên các đảo họ cưỡng chiếm từ năm 1974 và 1988 trong quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tháng 11-2007 hải quân Trung Quốc mở cuộc
tâp trận khá lớn có bắn đạn thật. Tháng 1-2008, tỉnh Hải Nam (Trung
Quốc) ra quyết định thành lập thị trấn Tam Sa để cai quản vùng quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, một kiểu khẳng định ngang ngược rằng toàn bộ
vùng ''Nam Hải'' là thuộc trọn chủ quyền của họ, mặc dầu Bắc Kinh hứa
hẹn giữ nguyên trạng để các nước có tranh chấp sẽ cùng nhau giải quyết
bằng con đường thương lượng. Tin rước đuốc 0lympic 2008 sẽ đi qua
Trường Sa và Hoàng Sa là thêm một khiêu khích trắng trợn của thế lực
bành trướng ngang ngược.
Nhóm lãnh đạo Việt Nam chí cốt với Bắc Kinh, nhất là hai nhân vật trong
Phủ Chúa và ông tổng bí thư giật mình. Họ hiểu rằng vấn đề chủ quyền
quốc gia và danh dự dân tộc là những vấn đề cực kỳ nhạy cảm với nhân
dân ta, nhất là quân đội, cựu chiến binh, tuổi trẻ, trí thức, văn nghệ
sĩ. Trước đó, những cuộc đụng độ của tàu chiến, tàu đánh cá có vũ trang
của Trung Quốc bắn vào thuyền đánh cá Việt Nam thuộc các tỉnh Thanh
Hoá, Hà Tĩnh... đã gây phẫn nộ trong nhân dân ta.
Từ nay, vấn đề chú quyền quốc gia trên lãnh thổ và vùng biển, hải đảo
luôn là vấn đề mang tính bùng nổ giữa hai nước vừa anh em, vừa thù địch
trong quá khứ, cũng đồng thời mang tính chất căng thẳng và bùng nổ giữa
nhân dân và lãnh đạo, trong khi thái độ kiêu ngạo nước lớn của Bắc Kinh
sẽ có thể châm ngòi bất cứ lúc nào. Bắc Kinh luôn chủ quan vì đã tạo
nên một nhóm tự nguyện phục vụ đắc lực bản chất bành trướng của chúng,
Bắc Kinh cũng chủ quan cho rằng chúng đã giúp cho chế độ độc đảng ở Hà
Nội một bộ máy an ninh - gián điệp - cảnh sát, đàn áp rất hung hãn và
thâm độc, chúng không tính đến tình trạng tức nước vỡ bờ khi quần chúng
đói nghèo bị chà đạp nặng nề.
Bão táp phẫn nộ dân tộc về chủ quyền quốc gia đã có những tín hiệu báo
động. Tháng 12 - 2007 và tháng 01 - 2008 đã có những cuộc biểu tình tự
phát của tuổi trẻ, nhà báo, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ trước sứ quán
và lãnh sự quán Trung Quốc. Nhà báo lão thành Tương Lai viết bài trên
báo Đại đoàn kết chất vấn nhà nước về hành động ngăn chặn biểu tình ôn
hoà của công dân; lần đầu tiên, trong cuộc họp của trung ương Mặt trận
Tổ quốc, nhiều tiếng nói cất lên chất vấn về vấn đề Hoàng Sa và Trường
Sa một cách khá gay gắt dù cho vấn đề này không có trong chương trình.
Rồi nhà báo điện tử VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn bị mất chức Tổng biên
tập chỉ vì dám đưa lên mạng một bài bình luận tâm huyết về chủ quyền
quốc gia, có tít: ''Sức mạnh đồng thuận Việt Nam, nhìn từ Hoàng Sa và
Trường Sa''.
Một chủ đề gai góc đang hình thành trong nhận thức của xã hội Việt Nam
trong thời kỳ mở cửa, đổi mới và hội nhập, đó là: một chính quyền ngăn
cấm việc tự do thông tin về vấn đề hệ trọng liên quan đến chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, một chính quyền coi những hành động yêu
nước là phạm pháp và đàn áp người yêu nước là chính quyền gì, thuộc
loại gì?
4- Những kiêu binh hiện đại
Trong chế độ độc đảng phản dân chủ ngự trị bằng đe doạ và lừa dối, bộ
máy cảnh sát là thế lực thống trị. Cảnh sát giao thông, công an phường,
xã, công an hộ khẩu thời trước, công an văn hoá ngày nay, tha hồ vùng
vẫy o ép, quấy rầy, úc hiếp người dân. Bộ máy đàn áp đặc biệt mẫn cán
trong đàn áp các chiến sĩ dân chủ, dùng cả những thủ đoạn bẩn thỉu hèn
hạ nhất như vu cáo, bỏ thuốc phiện, ma tuý, lựu đạn, súng vào vườn, vào
hành lý, còn bắt luật sư tỉnh táo vào bệnh viện tâm thần. Chính chúng
chế diễu khẩu hiệu ''công an là bạn dân'', ''yêu dân'',''quý dân'', xử
sự như bọn mafia hiện đại, như lũ kiêu binh thời trước, bất chấp luật
pháp và đạo đức. Chúng coi dân như cỏ rác, có khi như chó mèo, để cho
ăn được ăn, cho uống được uống, lôi quẳng lên xe rồi tống xuống nửa đêm
giữa đường vắng.[9]
Bọn kiêu binh hiện đại dựa vào cái uy của Phủ Chúa để lộng hành đến mức
họ dám vuốt râu cả những công thần cao nhất đuơng chức của chế độ. Có
thể nói trên hành tinh này, không một ai to gan hơn họ. Cuối năm 1994
họ dám cả gan gửi một bản báo cáo tuyệt mật cho Bộ trưởng quốc phòng
bịa đặt rằng Tổng cục 2 đã đặt được một ''đặc tình'' - nhân viên tình
báo đặc biệt - vào một bộ phận đầu não của cơ quan tình báo trung ương
Mỹ CIA ở Langley, gần thủ đô Washington DC, mang bí danh là ''T4''. T4
đã báo cáo về rằng ''CIA đã tranh thủ, lôi kéo, mua chuộc được các ông
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, cho đến cả thủ tướng Võ Văn Kiệt, chủ
tịch quốc hội Nguyễn Văn An để lấy được nhiều thông tin quan trọng.
Tướng Giáp còn lợi dụng khi gặp một số nhà báo và học giả Mỹ biết tiếng
Pháp để thông tin trực tiếp, không qua người phiên dịch chỉ biết tiếng
Anh''. Báo cáo còn nói rõ là các ủy viên bộ chính trị Phan Diễn, Trương
Tấn Sang và phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm cũng đã có lần cộng tác với
CIA (!). T4 báo cáo rằng hai bộ trưởng nội vụ kế tiếp là Mai Chí Thọ và
Bùi Thiện Ngộ cùng tướng Lê Văn Dũng (chủ nhiệm tổng cục chính trị) và
bà Võ Thị Thắng (tổng cục trưởng du lịch) cũng đã từng làm việc cho CIA
(!).
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh nhận xét rằng cái báo cáo táo tợn này
được thảo ra khi 2 nhân vật M + A cảm thấy sắp bị về hưu hoàn toàn nên,
- ngay trước thềm Đại hội IX, họ đã âm mưu dựa vào Tổng cục 2 và quân
đội làm một cuộc đảo chính quân sự, bắt giữ và kết tội tất cả các nhân
vật trên đây, xây dựng một chính quyền mới được Bắc Kinh công khai yểm
trợ mạnh mẽ. Cuối cùng mưu đồ này bị từ bỏ vì không ăn chắc, do vấp
phải sự lạnh nhạt của phần lớn tư lệnh quân đội đang tại chức. Sau Đại
hội IX, khi hai ông Phan Diễn và Trần Đình Hoan đến gặp riêng hai ông
cựu cố vấn Mười và Anh thông báo tình hình và nói đến việc tướng Giáp
và tướng Nam Khánh vẫn yêu cầu giải quyết công khai vụ Tổng cục 2, ông
Anh liền nổi gần như một cơn điên để nói rằng: sao các đồng chí không
ra quyết định khai trừ Giáp và Nam Khánh về tội phá hoại sự đoàn kết
của đảng? Phan Diễn lúc ấy là ủy viên thường trực bộ chính trị, đã rất
e ngại, can ngăn rằng: khai trừ thì có khó khăn vì phải đưa ra bàn và
lấy quyết định ở chi bộ cơ sở, mà chi bộ cơ sở lại ủng hộ họ. Sau đó để
trả lời cho sự thách thức của Phủ Chúa, chi bộ đảng CS Cửa Nam đã họp
và nhất trí bầu tướng Nam Khánh là ''đảng viên xuất sắc'' của năm 2004.
[10]
Nhóm MA tìm cách khử Võ Nguyên Giáp
Sau thất bại này, Phủ Chúa không chịu nằm yên. Tổng cục 2 vẫn ngang
nhiên mạnh tay đàn áp các chiến sĩ dân chủ, những nông dân oan ức mất
đất mất nhà, kéo dài nhùng nhằng các vụ án tham nhũng lớn, đưa một
trung tướng của họ vào chức Chánh án toà án Nhân dân tối cao. Họ cũng
vấp phải thất bại nặng; tuy được tổng bí thư Nông Đức Mạnh tiếp sức,
cuộc họp trung ương trước Đại hội X đã từ chối không chấp nhận cho
Nguyễn Chí Vịnh nhận chức Thứ trưởng quốc phòng, cũng đồng thời bác bỏ
việc cho con trai Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn vào ban chấp hành
trung ương. Họ không còn muốn gì được nấy.
Hơn một năm nay, để giữ uy thế, vớt vát thể diện, 2 cụ già trên dưới 90
vẫn cố sống dai và tìm cách xuất hiện trong các buổi lễ long trọng để
ngồi ở hàng đầu trong hội trường, trong buổi khai mạc Đại hội X cũng
như khai mạc Quốc hội khoá XII, kỷ niệm Quốc khánh 2 tháng 9, cũng như
kỷ niệm 90 năm cách mạng tháng mười 1917. Xem ra sức sống dai dẳng của
Phủ Chúa chỉ còn gửi gắm ở một tâm lý xã hội nước ta được cắm rễ khá
sâu là tâm lý nhược tiểu, sùng bái và e sợ nước lớn, mặc dầu ông cha ta
đã bao lần quật khởi đánh đuổi quân bành trướng phương Bắc, giữ vững
nền độc lập.
VI. Cuộc đọ sức giữa dân chủ và 2 thế lực đặc quyền đảng trị
Trên đây đã trình bày hoàn cảnh lịch sử quốc tế và trong nước, sự hình
thành của một thế lực ma quái được nước lớn phương Bắc nuôi dưỡng, công
cụ và mưu đồ của thế lực ấy, cũng như những kết quả, trở ngại và thất
bại của chúng trong gần 20 năm qua.
Vì cái thế lực ấy hoạt động lén lút, ẩn hiện, như có như không, nên
không dễ gì nhận ra cho thật rõ ràng, do đó cần phơi bày nó ra ánh sáng
để cả xã hội nhận diện nó cho thật minh bạch, hiểu rõ sự tệ hại nó gây
ra cho đất nước để có thái độ cần thiết.
1- Phủ Chúa và Cung Vua không đối kháng nhau
Có một ngộ nhận cần xoá bỏ, là coi Cung Vua đối lập với Phủ Chúa, cho
rằng hai thế lực này đối kháng nhau, loại bỏ nhau, sống mái quyết liệt
với nhau.
Hai thế lực này cùng chung một đường lối, một bản chất, một chiến lược,
một ý thức hệ. Đó là ý thức hệ mác xít với độc quyền đảng trị, thực
hiện XHCN kiểu mác xít lấy chuyên chính chà đạp nhân quyền làm đường
lối, đổi mới về kinh tế mà không đổi mới dứt khoát về chính trị và văn
hoá, thực hiện chiến lược hoà nhập 2 mặt - vừa là bạn vưà là thù -
trong đối ngoại, lấy sự sống sót của chế độ đặc quyền đặc lợi làm mục
tiêu.
Cái khác nhau của hai thế lực là sự khác nhau về chiến thuật, trong đậm
nhạt về màu sắc trong thi hành chính sách, trong tốc độ nhanh chậm về
tốc độ đổi mới, trong tính toán về bước đi trong cáỉ cách, chống tham
nhũng cũng như trong hội nhập quốc tế.
Trong thái độ gắn bó với bá quyền Bắc Kinh, một bên là thái độ gắn bó
thày trò, tin cậy, chí cốt, tự nguyện làm tay trong mẫn cán, một bên là
''láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt''. Trong kinh
tế, một bên là giữ vững các doanh nghiệp nhà nước, các cơ sở quốc
doanh, coi là nòng cốt lâu dài, một bên là từ từ giải thể một bộ phận
cơ sở quốc doanh đồng thời phát triển các cơ sở hợp tác xã (mới) và tư
nhân. Trong đàn áp các chiến sĩ dân chủ, dân oan, người đòi tự do tôn
giáo, một bên chủ trương dùng bạo lực chuyên chính mạnh bất chấp công
luận, một bên chủ trương đàn áp mạnh nhưng phải tính đến công luận.
Trong quan hệ quốc tế, một bên chủ trương gắn bó chặt chẽ chí cốt với
Trung Quốc, từ từ chậm chậm trong quan hệ với phương tây, một bên chủ
trương mở rộng quan hệ toàn diện với phương Tây với nhịp độ cao hơn đôi
chút.
Do cũng chung một bản chất, chỉ có đậm nhạt khác nhau, khó có một ranh
giới thật rõ rệt, đồng thời có sự chuyển hoá giữa người của hai thế lực
ấy, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh, và có những người vừa làm việc cho
bên này cũng đồng thời là người của phía bên kia, như ở phần trên đã
thấy.
2- Kẻ thù chung của cả Cung Vua và Phủ Chúa
Kẻ thù chung của cả Cung Vua và Phủ Chúa là những ai chủ trương chuyển
từ chế độ độc đoán độc đảng sang chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, sang
chế độ mà công dân có những quyền tự do ghi trong hiến pháp, tự do tư
tưởng, tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do lập hội. Họ là những người
mong muốn xây dựng một xã hội công dân, trên nền tảng luật pháp bình
đằng cho mọi người, không ai có đặc quyền đặc lợi, hội nhập nhanh chóng
với thế giới tiến bộ trên cơ sở bình đẳng tôn trọng độc lập và chủ
quyền của nhau.
Lực lượng đấu tranh cho độc lập đầy đủ, dân chủ và tự do về mọi mặt cho
dân tộc đang ngày càng phát triển từ khi có chính sách đổi mới và mở
cửa (từ 1986) đến nay, bao gồm nhiều trí thức, văn nghệ sĩ, tuổi trẻ,
giới kinh doanh, trong đó nổi lên nhiều chuyên gia các ngành am hiểu
dân tộc và thế giới, các chuyên viên các ngành khoa học xã hội và khoa
học kỹ thuật, các luật gia luật sư am hiểu luật pháp, các nhà giáo dục,
sử học, văn hoá tâm huyết với dân tộc.
Họ nằm rải rác ở khắp các địa phương, xuất hiện công khai dần từ các đô
thị lớn, 15 năm trước nếu kể tên có thể có danh sách vài trăm, khi thế
kỷ 20 kết thúc con số ấy đã lên vài ngàn, và đến nay đã là hàng vạn,
hàng chục vạn tấm lòng dấn thân ở những mức độ khác nhau cho quyền sống
tự do của nhân dân, cho sự phát triển hài hoà bền vững của đất nước.
Rồi đến lúc thuận lợi, gần như toàn dân sẽ ủng hộ họ. Họ là tinh hoa
dân tộc, họ chứng minh rằng Tổ quốc ta, hiền tài thuở nào cũng có, khi
đất nước cần là luôn có lớp lớp kẻ sĩ vẫy gọi nhau dấn thân cho đất
nước, không quản hiểm nguy, không ngại gian khổ khó khăn.
Một bộ phận tiên tiến của các chiến sĩ dân chủ bị truy tố, kết án bởi
những phiên toà ''bịt miệng'' kiểu phát xít, đã và đang nêu gương sáng
đẹp cho toàn xã hội, tạo niềm tin ngày càng vững vào tương lai dân chủ
tất yếu ở phía trước.
Chỉ hơn một năm sau khi nước ta gia nhập WTO - tổ chức thương mại thế
giới, nhân dân ta hiểu ngày càng rõ giá trị của thông tin chuẩn xác,
nhanh nhậy, trên tinh thần công khai minh bạch, giới học sinh sinh viên
sớm nhận ra sự lợi hại vô cùng của '' thế giới phẳng'', với công cụ
tuyệt diệu đến thần kỳ của mạng lưới internet toàn cầu, với vô vàn mạng
báo - thông tin điện tử , vô vàn bloggers đối thoại giao lưu trong
không trung để cùng nhau tìm ra sự thật, lẽ sống và đường đi tối ưu cho
mình và cho nước mình.
3- Đối tượng trên thực tế của cả Cung Vua và Phủ Chúa
Nhóm lãnh đạo hiện nay không phải chỉ coi những chiến sĩ dân chủ, những
người đòi tự do công giáo, đòi nhà nước trả lại các cơ sở tôn giáo bị
trưng thu trưng dụng trong thời chiến, bị nhà nước tạm mượn rối ''quên
trả'', những người mong muốn xây dựng chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng
... là những phần tử thù địch, chống đối chế độ nguy hiểm cần theo dõi,
cô lập và nghiêm trị.
Tất nhiên cũng như trong mọi chế độ chính trị khác, đối tượng của mọi
chế độ cần theo dõi, phát hiện và trừng phạt theo luật còn có những kẻ
phạm pháp, vi phạm trật tự an ninh xã hội, những phần tử cướp của giết
người, bọn tham nhũng, nhằm bảo vệ cuộc sống yên lành và quyền lợi hợp
pháp của xã hội.
Trong một chế độ toàn trị của một đảng, khi nhân dân không được quyền
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do bầu cử, những
quyền tự do cơ bản tự nhiên của con người, thì trên thực tế bộ máy
thống trị đã đặt toàn dân thành đối tượng kiểm soát, và coi bất kỳ một
người dân bình thường nào cũng là một ''kẻ đối lập tiềm năng ''. Chỗ
yếu cơ bản của nó là ở đó.
Do đó các chế độ độc đảng chỉ tạo nên tâm lý sợ hãi, chứ không tạo nên
niềm tin cậy hay tin yêu, nếu có chăng chỉ là niềm tin hời hợt, cưỡng
ép, giả tạo. Trong thời điểm hiện nay, đang có chuyển biến hai chiều
trong tâm lý xã hội. Nhân dân trong thời đổi mới, trong lúc CNXH
mác-xít không còn đất sống, phe XHCN tan vỡ, lý tưởng cộng sản mờ nhạt,
đảng viên từng được dạy ''đi trước thiên hạ trong chiến đấu hy sinh, đi
sau thiên hạ trong hưởng thụ'' thì nay lại bỏ xa nhân dân trong nghèo
khổ để lao tới hưởng thụ vật chất còn quá tư sản thời xưa; niềm khinh
ghét cường quyền nảy nở, bọn kiêu binh lộng hành bất chấp đạo lý càng
làm cho dân phẫn nộ. Một bộ phận tiên tiến trong trí thức và tuổi trẻ
thức tỉnh rất nhanh cả về số lượng và chất lượng, họ dám công khai chất
vấn nhà cầm quyền về những hiệp ước bất bình đẳng Việt- Trung, về sao
lại cấm dân biểu lộ lòng yêu nước khi biểu tình trước các cơ quan của
bọn bành trướng, sao lại đàn áp dân oan là những người lẽ ra chế độ
phải bênh vực. Nhà cầm quyền không nhận ra sự thức tỉnh cao đẹp ấy của
công dân, lại coi sự thức tỉnh ấy là nguy hiểm và đàn áp; chính họ đang
đổ dầu vào ngọn lửa uất hận chính đáng của đông đảo quần chúng. Chính
họ đang là nguyên nhân tạo nên sự chống đối chế độ toàn trị ngày càng
tăng.
4- Đối sách khác nhau đối với Cung Vua và Phủ Chúa
Các chiến sĩ dân chủ tự nguyện dấn thấn giành lại cuộc sống tự do cho
nhân dân đã chọn con đường không bạo lực, cho nên vũ khí duy nhất của
dân chủ là lý lẽ, là đối thoại, là những bài báo cuốn sách, buổi phát
thanh, trang điện tử, là tranh luận làm rõ sự thật, phải trái, đúng sai
để công luận xã hội xem xét, đánh giá, tiếp nhận có lựa chọn, làm trọng
tài.
Trong khi nêu lên cái sai, sự tệ hại của chế độ độc đảng phản dân chủ,
các chiến sĩ dân chủ chúng ta công nhận những điều tiến bộ, đúng đắn có
kết quả của chính quyền hiện tại, đồng thời vạch rõ những hạn chế, bất
cập, sự trì trệ lạc hâu của đường lối, chính sách đang được thi hành và
chỉ ra con đường đúng đắn mà đất nước cần thực hiện để có phát triển
bền vững và phồn vinh trong công bằng xã hội, trong hạnh phúc của toàn
dân.
Tuy đảng CS vì nhận ra sự đuối lý của họ nên không dám chấp nhận đối
thoại bình đẳng công khai với các tổ chức và cá nhân dân chủ, chỉ dùng
vu cáo, xuyên tạc và đàn áp, nhưng dần dần những lý lẽ đúng đắn và thái
độ vô tư vì nhân dân và đại nghĩa đang chinh phục xã hội, bắt đầu từ
những trí thức có tâm và có thiện ý, có trí tuệ và lòng yêu nước thương
dân. Xu thế tiến bộ trong tư duy của nhân loại thời đại mới cùng công
nghiệp thông tin hiện đại đang đẩy nhanh sự thức tỉnh đẹp đẽ này.
Chúng ta đặc biệt vạch trần những hoạt động phá hoại, phạm pháp của Phủ
Chúa, những tội ác chúng gây ra, những ngáng trở nguy hiểm làm chậm đà
phát triển, làm chúng ta luôn chậm chân, lẹt đẹt lẽo đẽo phía xa sau
lưng nước lớn, bỏ qua nhiều cơ hội quý hiếm, lại còn bị thiệt đơn thiệt
kép, bị lấn đất lấn biển, mất đảo và vô vàn tài nguyên quý hiếm của
quốc gia.
Đồng thời, với nước láng giềng lớn, chúng ta chủ trương thực hiện một
quan hệ bình đẳng, tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giữ quan hệ láng giềng tốt, được
sự đồng thuận của các nước Đông Nam Á và Liên Hợp Quốc.
Chúng ta cần mạnh dạn và khôn khéo đòi hỏi tách dần mối quan hệ khuất
tất không minh bạch giữa chính quyền đương nhiệm với Phủ Chúa, khi hai
kẻ cầm đầu M+A của Phủ Chúa không còn có cương vị và quyền hạn nào nữa
trong đảng công sản cũng như trong bộ máy nhà nước.
Cần khắc phục một nhận thức không phù hợp với sự thật là hai '' bố già
'' cao tuổi hiện ốm đau sắp đến ngày ''ra đi '' rồi, không cần đếm xỉa
đến làm gì, họ đã thuộc về quá khứ rồi, bận tâm làm gì cho phí sức.
Thật ra họ vẫn sống, vẫn có mưu đồ cực thâm độc, vẫn có kẻ trong bộ
chính trị đến báo cáo và xin chỉ thị, họ vẫn sử dụng công cụ - lại là
loại công cụ nhọn sắc kiểu mafia, không thể coi thường. Thông qua họ,
nước lớn mới thực hiện được những mưu ma chước quỷ, gây vô vàn mất mát,
lại kìm hãm tốc độ phát triển của ta để mãi mãi buộc ta phải phụ thuộc.
Hoàng Sa và Trường Sa: vấn đề nhức nhối
Chính vì cái Phủ Chúa tệ hại đang tự phơi bày những tội lỗi cực kỳ nham
hiểm cùng với thế cô đơn, cô lập trước công luận của nó mà tất cả sức
đấu tranh lành mạnh của xã hội cần giáng một đòn quyết định để kết thúc
nó. Các thế lực lương thiện trong xã hội hãy đòi công khai hoá bản kết
luận của Ban kiểm tra liên ngành về Tổng cục 2 và nhân vật Lê Đức Anh
(đã bị khoanh lại và ỉm đi), đòi chính quyền cao nhất là chính phủ và
quốc hội công khai hủy bỏ các Quyết định về chức năng và quyền hạn của
Tổng cục 2, đưa Tổng cục 2 trở về vị trí Cục 2 thuộc bộ Tổng tham mưu
như đã được quyết định.
5- Phủ Chúa đổ sập thì Cung Vua cũng rung rinh theo
Cái sai, cái dại dột chết người của chính quyền hiện tại là không tách
khỏi nhóm nhân vật tận tụy gắn mình với bành trướng Bắc Kinh. Họ nghĩ
rằng liên minh với thế lực M+A là khôn ngoan, là tăng thêm chỗ dựa,
nhưng rõ ràng đó là con đường xa rời nhân dân, con đường đi ngược với
quyền lợi dân tộc. Đó là điểm yếu, là huyệt yếu - ''tử huyệt'', là ''
gót chân Achille '' của chính quyền hiện tại. Nhân dân ta, xã hội ta,
một bộ phận trong đảng cộng sản đã nhận ra điều ấy. Tiến công vào thế
lực nguy hiểm nhất cho dân tộc, cũng là tiến công vào chỗ sơ hở yếu kém
nhất của chính quyền độc đảng, đang là một mục tiêu trước mắt của tất
cả các lực lượng dân chủ và tiến bộ của xã hội ta.[11]
6- Những đồng minh tạm thời và những đồng minh lâu bền
Những bức thư của tướng Giáp, tướng Nam Khánh, tướng Nguyễn Hoà hay thư
của cụ Phạm Văn Xô tố cáo sự dối trá của Lê Đức Anh hay hồi kí của
nguyên phó thủ tướng Đoàn Duy Thành vạch mặt thâm hiểm của Đỗ Mười, các
chiến sĩ dân chủ đưa ra công khai và phổ biến rộng rãi không phải vì
các nhân vật ấy là thân thiết chí cốt với chúng ta, là thuộc cùng chung
đội ngũ đấu tranh với chúng ta, mà chỉ vì những chính kiến, đòi hỏi hay
tố cáo của họ chĩa đúng vào những đối tượng có hại cho nhân dân nhất mà
chúng ta cần vạch mặt và loại bỏ. Những nhân vật trên đây chỉ là những
đồng minh tạm thời thôi, vì họ vẫn trung thành với nền chuyên chính độc
đảng, những điều họ tố cáo cường quyền còn mang nặng động cơ cá nhân,
họ còn đối lập với xu thế dân chủ hoá. Không tận dụng thái độ cụ thể
''thức thời '' nào đó của họ là dại, là sai nhưng không thể lầm lẫn.
Chúng ta chỉ coi là bạn thân, là ''đồng chí '' chí cốt của các chiến sĩ
dân chủ chúng ta những ai chủ trương thay thế chế độ độc quyền đảng trị
bằng chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, với nền luật pháp bình đẳng công
bằng cho mọi công dân.
Do đó, cần làm rõ vị trí của ông Võ Nguyên Giáp và ông Võ văn Kiệt
trong thời cuộc hiện nay. Theo ý kiến chung của anh chị em dân chủ
trong nước, tướng Giáp hiện 97 tuổi qua 3 bức thư năm 2004, 2006 và
2008 vẫn chỉ lo thanh minh cho uy tín cá nhân riêng (rất hão huyền) của
mình; chúng tôi nhiều lần kêu gọi ông cuối đời hãy nghĩ kỹ câu ''nhất
tướng công thành vạn cốt khô'' để lên tiếng trả lại tự do thật sự cho
xã hội mà vì nó hàng triệu chiến sĩ đã bỏ mình, mà đảng của ông và
chính ông đã ''quỵt'' họ. Ông rất đáng trách khi gần đây không gửi một
vòng hoa hay một lời viếng đến gia đình ông Hoàng Minh Chính, một người
từng có chiến công lớn chống thực dân Pháp và dấn thân cho dân chủ.
Nhiều tướng lĩnh và cựu chiến binh chỉ mong, trước khi từ biệt cõi
trần, ông có một lời công bằng giải oan cho thượng tướng Chu Văn Tấn,
trung tướng Đặng Kim Giang, Lê Liêm, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Minh
Nghĩa, Phạm Quế Dương.. và ngỏ một lời hối hận chân thành vì đã tham
gia chủ trương đày đoạ hàng chục vạn sĩ quan và viên chức, nhân sĩ miền
Nam, tạo nên bi kịch thuyền nhân... Ông còn chút thời gian để nghĩ lại
và hãy tỏ ra là một vị tướng có học thức, có chất nhân dân, có lòng
Nhân.
Ông Võ Văn Kiệt vừa có bài đòi quan tâm đến người nghèo, nhưng ai đã
nhân danh thủ tướng để ký Nghị định dựng lên cái Tổng cục 2, để cho nó
lộng hành, đánh đập dân oan, tra tấn các chiến sĩ dân chủ, còn viện an
ninh Trung Quốc ra doạ dân Việt Nam, và nay ông thản nhiên để nó mặc
sức gây tội ác? Lời kêu gọi hoà hợp dân tộc của ông vẫn gượng gạo,
trịch thượng khi ông không hề tỏ ra hối hận về chủ trương''trả thù,
chiếm đóng và tự thực dân hoá miền Nam'' hồi 1975 như nhà báo Pháp Jean
Lacouture nhận định rất sâu sắc (politique de revanche, d'occupation et
d ' auto-colonisation).
Có một lực lượng xã hội tuy có vẻ rời rạc, thiếu tổ chức nhưng lại là
lực lượng đấu tranh cho dân chủ có tiềm năng cực lớn, đó là lực lượng
nông dân bị tước quyền tư hữu ruộng đất đang có ý thức giành lại quyền
sở hữu chính đáng ấy. Họ là bạn đồng minh lâu bền của chúng ta. Các
Luật đất đai 1987, 1993, 2003 đều quy định '' đất đai, rừng núi, sông
hồ, hầm mỏ đều thuộc quyền sở hũu toàn dân '', một hình thức sở hũu kỳ
quặc, không hề có trong pháp luật quốc tế. Cả hơn 80 triệu dân đều sở
hưũ chung mỗi một tấc đất của đất nước, do đó trên thực tế không có ai
có một tấc đất nào cả. Vì đảng cộng sản ngang nhiên tịch thu quyền sở
hũu ruộng đất của nông dân, chỉ cho họ ''quyền sử dụng'', từ đó đẻ ra
chuyện ''thu hồi'' tùy tiện, rồi chuyện ''đền bù'' và ''cưỡng chế'',
rồi ''giải toả'' vô cùng phức tạp và rối loạn mà không nước nào có cả.
Nhiều luật gia trẻ và sinh viên ngành luật nghiên cứu những luật đất
đai thời phong kiến và thời Pháp thuộc cho rằng nếu so sánh thì luật
đất đai thời XHCN là phi lý, không thực tế và không tưởng, đã đến lúc
cần có dũng cảm để sửa chữa sai lầm khổng lồ này và trả lại cho nông
dân quyền tư hữu ruộng đất, sau khi đã trả lại quyền tư hữu cho giới
buôn bán, kinh doanh, thủ công, công nghiệp và dịch vụ.
Những người làm luật cổ Hy lạp đã tả rất đúng rằng thiên nhiên xa xưa
chỉ có núi rừng rậm rịt đầy thuồng luồng rắn rết, người nông dân cổ đại
dũng cảm bền bỉ khai phá từng tấc đất, tạo nền đồng ruộng phì nhiêu và
mùa màng phong phú, xứng đáng là người chủ chân chính của mỗi thửa đất
được khai phá, mang biết bao mồ hôi xương máu của họ, của lớp lớp con
cháu họ sau này.
Vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp đang là vấn đề chiến lược nóng
bỏng; tình hình cần đến những trí thức nông dân mới, những luật gia có
lòng với nông thôn lâp gấp những tổ chức, những tờ báo, mạng điện tử
như ''tiếng nói nông dân'', ''nông dân đòi lại quyền tư hữu '', nêu lên
cho toàn xã hội về các vấn đề : ''luật đất đai đúng, sai ở chỗ nào?'',
''sao nhà buôn, nhà kinh doanh, người làm dịch vụ có quyền sở hữu tư
nhân mà người nông dân lại không?'', và chứng minh rằng từ bỏ khái niệm
''sở hữu toàn dân'' kỳ dị quái đản sẽ giải quyết xong xuôi các sự kiện
''thu hồi đất'', sinh ra việc ''cưỡng chế'' và ''đền bù'', dẫn đến hiện
tượng ''dân oan'' đông đảo, phức tạp, nan giải, làm chấn động xã hội.
Mỗi chiến sĩ dân chủ cần quan tâm thật sự đến vấn đề nông dân vẫn còn
chiếm gần 70% số dân, vì nông dân bị hy sinh tính mạng nhiều nhất trong
chiến tranh, bị bỏ rơi và bạc đãi trong ''xây dựng''và ''đổi mới'', với
lớp lớp cường hào cộng sản mới, hiện nay đất bị thu hẹp, nước sạch
không có, hứng chịu ô nhiễm tràn về từ thành thị, khu công nghiệp. Hội
nông dân trong Mặt trận Tổ quốc chỉ là bù nhìn mờ nhạt, một cái bóng ô
nhục của đảng cầm quyền. Lời than từ nông thôn: đảng Cộng sản phản bội
nông dân không phải là quá đáng.
VII. Kết luận
1- Một đặc điểm của tình hình gần 20 năm nay
Suốt gần 22 năm nay kể từ sau Đại hội VII (1991), đảng CS Trung Quốc đã
rắp tâm cấy vào trong lòng chế độ hiện hành ở Việt Nam một nhóm lãnh
đạo bản xứ trung thành với họ, nhằm kìm hãm nước ta trong vòng kiềm tỏa
của họ nhằm phục vụ cho mục tiêu bành trướng vô hạn.
Nhóm này đã leo lên đến những chức vụ cao nhất của chế độ, đảng CS và
Nhà nước, và ban phát nhiều chức vụ hệ trọng nhằm tác động lâu dài trên
quan điểm ''tác thành'', nhằm duy trì những tay chân thân tín làm lợi
cho Thiên triều.
Nhóm này cũng rèn dũa được một công cụ tình báo sắc bén với phương tiện
và quyền năng vô hạn, có cơ sở pháp lý hẳn hoi, nhằm duy trì chế độ độc
đảng lạc hậu, kềm hãm tốc độ đổi mới và hội nhập, chĩa mũi nhọn chuyên
chính vào các chiến sĩ dân chủ, bất chấp dư luận xã hội và công luận
quốc tế.
Thế lực ''ngoại xâm'' trong nội bộ chế độ hiện hành đã ngăn chặn mọi
cuộc đối thoại ngay thẳng, lành mạnh trong nội bộ dân tộc để tìm ra con
đường đúng đắn cho đất nước, thực hiện đoàn kết dân tộc, dân chủ, tự
do, phát triển hài hoà và bền vững trong công bằng và bình đẳng xã hội.
Chính thế lực này đã dùng quyền uy để ''khoanh'' các vấn đề, định ra
các ''giới hạn'', cấm cản trí thức tranh luận vấn đề ''độc đảng hay đa
đảng'', ''giữ lại hay từ bỏ chủ nghĩa Mác Lênin'','' chủ nghĩa xã hội
kiểu mác-xít hay kiểu xã hội dân chủ'', cũng như đề ra chủ trương cưỡng
bách ''không đưa ra Ban chấp hành trung ương Bản báo cáo tuyệt mật của
Ban kiểm tra liên ngành về những vấn đề liên quan đến đảng viên Lê Đức
Anh'', mặc dầu việc thành lập Ban kiểm tra liên ngành là do Ban chấp
hành trung ương quyết định và mặc dầu theo đúng Điều lệ đảng, Ban chấp
hành trung ương là cấp cao hơn bộ chính trị !
Chính nhờ nhóm tay trong thúc đẩy mà Bắc Kinh đã trôi chảy ngoạm được
những mảng đất lớn (có thể là hơn 850 km vuông), những vùng biển lớn
(hơn 10 ngàn km vuông) cùng vô vàn tài nguyên hải sản trong hợp tác
đánh cá chung (!) và ngang nhiên chiếm đoạt nhiều đảo trong các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Những hành động phục vụ bọn bành trướng phương Bắc đã diễn ra chỉ sau
hơn 20 năm quân lính của chúng tràn vào 6 tỉnh phía Bắc nước ta để tàn
sát và tàn phá hàng chục vạn thường dân, đồng thời chúng huấn luyện,
trang bị và chỉ huy bọn lính Khơme Đỏ chống trả ''quân tình nguyện Việt
Nam'' ở Kampuchia, gây nên hơn 50 ngàn lính trẻ chết và 300 ngàn thương
binh.
2- Nhận diện những nhân vật hiến mình cho ngoại bang
Như trên đây đã nói, trong bộ chính trị hiện nay, tất cả đều ít nhiều
thân Trung Quốc hơn là thân với các nước dân chủ phương Tây. Thật ra
gốc gác của ''tinh thần Bắc thuộc'' ấy bắt nguồn từ ngay khi thành lập
đảng CS Đông dương năm 1930 ở Hoa Nam, từ tinh thần sùng bái Mao Trạch
Đông của ông Hồ Chí Minh khi khẳng định '' bác Mao không bao giờ phạm
sai lầm'' (1952), từ khi ông Phạm Văn Đồng (1958) nhanh nhẩu công nhận
việc mở rộng lãnh hải Trung Quốc xuống phía Nam. Hiện nay, những người
lãnh đạo còn sống vẫn theo cái đà mù quáng ấy. Tuy nhiên trong tình
hình mới, tinh thần Bắc thuộc, thân Trung Quốc trong họ cũng có những
mức độ, màu sắc đậm nhạt khác nhau.
Trái lại, trong tâm lý xã hội, trong quần chúng nhân dân, trong trí
thức ưa phóng khoáng, tự do sáng tạo thì khuynh hướng có cảm tình với
phương Tây rõ ràng là đậm đà. Với việc mở rộng thông tin, giao dịch, du
học nước ngoài và du lịch, khuynh hướng ưa thích văn hoá học thuật giáo
dục phương Tây đang ngéy càng phát triển. Hai luồng tâm lý trái ngược
trên đây có thể chuyển hoá và tác động lẫn nhau tùy theo điều kiện,
nhưng sự chuyển hoá theo chiều hướng thân phương Tây, thân các nước dân
chủ vẫn là hướng áp đảo.
Trên đây đã điểm mặt các nhận vật chính trị hiện tại ở nước ta thân
thiết với bành trướng Bắc Kinh nhất, từ 2 ông M+A, đến tổng bí thư
đương nhiệm Nông Đức Mạnh, phó thủ tướng thường trực đặc trách về tài
chính Nguyễn Sinh Hùng, đến những nhân vật đã nhanh nhẩu thúc đẩy việc
đàm phán và ký kết 2 Hiệp ước Việt-Trung cùng Nghị định thư về hợp tác
đánh cá chung trong Vịnh Bắc bộ. Cũng cần kể đến nhân vật hiện có thế
lực nhất ở Bộ công an là thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn thứ trưởng
thường trực bộ công an, phó bí thư đảng ủy ngành công an, bị nhiều sĩ
quan cấp cao trong ngành tố cáo về tệ tham nhũng, độc đoán, gia đình
trị (vợ và 2 con trai đều trong ngành và sống xa hoa, ngạo mạn), tiếp
đến là ủy viên bộ chính trị trưởng ban Tổ chức trung ương đảng Hồ Đức
Việt và ủy viên trung ương đảng trưởng ban Tuyên giáo trung ương đảng
Tô Huy Rứa là những người thường xuyên công khai đi Bắc Kinh để chăm
chỉ học theo kinh nghiệm của Trung Quốc và trao đổi cởi mở với lãnh đạo
Trung Quốc về nội tình Việt Nam.
Cũng cần nói đến 2 ông Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng khi mới vào
bộ chính trị được một số cán bộ coi là có tư tưởng tương đối cởi mở, có
xu hướng đổi mới, nhưng với thời gian hai ông đều lòi đuôi giáo điều
bảo thủ nặng khi ông Triết tuyên bố duy trì đến cùng chế độ độc đảng vì
'' nếu đảng CS thực hiện đa đảng thì sẽ là tự sát '' (!), còn ông Dũng
thì ngang nhiên khẳng định trong cuộc phỏng vấn trực tuyến rằng ''
chính tôi đã ký chỉ thị cấm tư nhân làm báo '', tự mình thú nhận chống
lại điều khoản về tự do báo chí ghi trong Hiến pháp.
3- Những chủ đề cần khơi dậy để đấu tranh
Theo tinh thần tự do dân chủ chống độc đoán, mọi vấn đề của cuộc sống
đều có thể là nội dung đấu tranh, không có vấn đề nào là cấm kỵ, là
tránh né, là ''khoanh'' lại, nhằm nói lên sự thật và chân lý, vì một
nền truyền thông phóng khoáng lành mạnh.
Chủ đề lớn nhất là ''đổi mới'' và ''hội nhập'' thực sự ắt phải đi đến
thực hiện dân chủ đa đảng, như hiến pháp hiện hành công nhận các
''quyền tự do lập hội'' và ''quyền tự do bầu cử ''; đó là mục tiêu hệ
trọng nhất nhằm giải quyết mọi nan đề hiện nay của đất nước.
Chủ đề chống tham nhũng và lãng phí với sức ép mọi cấp chính quyền phải
làm đúng lời hứa, chống kiểu khẩu hiệu suông, lời hứa hão, không thể để
vụ PMU 18 hơn 2 năm chưa giải quyết xong, chỉ vì vướng con gái và con
rể tổng bí thư; không đụng đến lời hứa dỡ bỏ hệ thống tổ chức song
trùng đảng và chính quyền, chủ tịch và bí thư, ủy ban và đảng ủy, ban
và bộ, dẫm dạp và trùng lắp, ngốn vô vàn ngân sách mà hiệu quả lại
thấp, xây ít phá nhiều, không giống một nước nào. Chỉ riêng việc này đã
có thể tiết kiệm đến hàng trăm nghìn tỉ đồng.
Hiện nay, khi lạm phát tăng nhanh, khủng hoảng kinh tế cùng với khủng
hoảng xã hội xuất hiện, khoảng cách giàu nghèo mở rộng, nông dân, công
nhân, lao động, viên chức sống lao đao, cần chỉ rõ nguyên nhân bất công
xã hội nằm ở chế độ độc quyền đảng trị nuôi dưỡng tệ tham nhũng và nạn
hành chính quan liêu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế có nguy cơ kéo dài và trầm trọng vì những
người cầm quyền, quan chức cao cấp nhất luôn mắc bệnh thành tích và
bệnh chủ quan, chỉ thích thổi phồng thành tích để tuyên truyền huênh
hoang, không muốn nói đến yếu kém, khuyết điểm và sai lầm, không muốn
nhìn thẳng vào sự thật nên luôn bị bất ngờ, bị động, hốt hoảng.
Gần đây khi cả thế giới lên án sự đàn áp của chính quyền Trung Quốc ở
Tây Tạng thì cả 600 báo chí và đài phát thanh ở Việt Nam đều im lặng
một cách trơ trẽn, tự phơi bày sự cô lập và thú nhận tự do báo chí chỉ
là lừa dối.
Những gì chính quyền phản dân chủ muốn ''khoanh'' lại, muốn ỉm đi, sợ
dư luận xã hội biết rõ, tất cả các phương tiện truyền thông dân chủ
càng cần đưa ra một cách rõ ràng, bền bỉ, phổ cập rộng rãi trong xã
hội, nhằm ''nhân bản'', ''tăng âm'' những tài liệu nhạy cảm ấy. Nhiều
tài liệu liên quan đến Tổng cục 2 và nhân vật T4, đến các Hiệp ước Việt
- Trung, đến Hoàng Sa và Trường Sa ... được ở ngoài nước in thành tập,
gửi về nước, được tìm đọc như những văn kiện quý hiếm.
4 - Thời cơ đấu tranh ngày càng nhiều và thuận lợi
Cuộc đấu tranh cho dân chủ phơi bày bộ mặt thật phục vụ bọn bành trướng
nước ngoài và dựa vào chúng, quay lưng lại dân tộc mình, nhân dân mình
ngày càng thuận lợi. Nhân dân ta ngày càng bớt sợ hãi chính quyền hung
hãn và bộ máy đàn áp. Trong bộ máy đàn áp (cảnh sát, công an) phần lớn
chỉ vì miếng cơm manh áo cuộc sống của gia đình mà làm việc được giao,
nhiều người có lương tâm, e ngại làm việc thất đức, không ít nhân viên
ở cơ sở đồng tình với nạn nhân bị đàn áp. Sự đồng tình và ủng hộ quốc
tế đối với các chiến sĩ dân chủ nước ta cũng là một cổ vũ quý báu cho
những tấm lòng yêu nước thương dân muốn dấn thân vào cuộc đấu tranh cao
đẹp này.
Bất công xã hội mở rộng, hố cách biệt giàu nghèo ngày thêm sâu thẳm,
chứng minh bọn gian thần hiện đại làm giàu trên mồ hôi và nước mắt
người lao động, mặc sức '' múc '', '' xúc '', chia chác tài sản chung
trong một chế độ không có công bằng và luật pháp nghiêm, một nền quản
trị đất nước hỏng từ gốc vì mang bản chất độc đoán, không thể kén chọn,
tuyển lựa nhân tài.
Một Nhà nước thân bành trướng Bắc Kinh, dựa theo mô hình độc đảng Bắc
Kinh đang dẫn dân tộc ta đến thảm hoạ. Công nhân và lao động làm thuê
cho tư bản nước ngoài và cho các cơ sở quốc doanh bị bóc lột tàn nhẫn;
công đoàn được đảng cộng sản tổ chức chỉ phục vụ cho bọn chủ xí nghiệp.
Lao động xuất khẩu cũng bị các công ty của đảng đem bán cho tư bản nước
ngoài theo kiểu đem con bỏ chợ. Ở Malaixia hơn 300 người chết chỉ trong
hơn 2 năm. Chính các tổ chức bênh vực người lao động Việt Nam trong
cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã dựa vào luật lao động quốc tế để
bênh vực có hiệu quả quyền lợi chính đáng của anh chị em; bộ lao động
và Tổng công đoàn ở Hà Nội không cảm thấy hổ thẹn sao? Hội liên hiệp
phụ nữ của đảng hoàn toàn dửng dưng và vô cảm trước thảm trạng phụ nữ
và trẻ em ta bị đem bán sang Kampuchia, Malaixia, Đại Hàn, Đài loan ...
hàng ngàn, vạn người, thành nô lệ mới, gái điếm bần cùng.
Gần dây, chính quyền yếu hẳn do khả năng quản trị đất nước kém cỏi, sa
sút, thiếu công tâm. Chống tham nhũng bùng nhùng. Đất đai rối loạn. Chỉ
tiêu cơ bản về phát triển đã buộc phải lùi. Việc cấm tiểu thương hàng
rong, cấm xe ba gác giáng bừa vào dân nghèo. Chứng khoán xì hơi. Việc
phá hội trường Ba đình không tránh khỏi làm hư hại nặng Di tích Hoàng
thành. Tiến lui đều khó. Nhưng cái thế buộc phải lui, không thì khốn.
Năm 2008 đang mở ra nhiều triển vọng cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta cho dân chủ tự do và nhân quyền.
Bài biên khảo này nghiên cứu sự hình thành của một thế lực tận tụy bán
mình cho bành trướng nước ngoài trong những điều kiện nào, trong hoàn
cảnh nào; điểm mặt chỉ tên những kẻ cầm đầu cùng với lai lịch, chân
dung, trình độ, tư cách và mưu đồ của chúng; chỉ ra công cụ lợi hại
chúng đã dựng lên và xử dụng như thế nào; tuy chúng không còn thực
quyền hợp pháp nhưng chúng vẫn lũng đoạn và khống chế bộ máy đương
quyền ra sao; những kẻ đương quyền nào đang ra tay tiếp sức cho chúng;
chúng đã từng bị điều tra và kết luận ra sao, suýt ở vào ghế bị cáo,
suýt đứng trước vành móng ngựa nhưng đã tạm thời thoát nạn như thế nào,
bằng chủ trương ''khoanh'' lại, ỉm đi, bóp chết vụ án như thế nào. Bài
biên khảo chỉ ra sự nảy sinh và khuynh loát của thế lực mafia hiện đại
này đã kìm hãm tốc độ ''đổi mới'' và ''hội nhập quốc tế'' của nước ta
ra sao, gây nên sự lạc hậu về mọi mặt của nước ta như thế nào, từ chậm
ký Hiệp định buôn bán tay đôi với Hoa kỳ (BTA) đến chậm gia nhập Tổ
chức buôn bàn quốc tế (WTO). Chính thế lực nguy hiểm này đã kìm hãm
chặt chẽ nước ta không cho chuyển sang chế độ dân chủ thật sự là chế độ
đa nguyên đa đảng, để có thể hội nhập hoàn toàn vào thế giới dân chủ
hiện đại.
Bài biên khảo còn chỉ ra sự liên minh nguy hiểm giữa 2 thế lực Cung Vua
với Phủ Chúa, dựa dẫm vào nhau, bắt tay với nhau tuy có những chủ
trương và bước đi khác nhau, cũng có khi chống đối nhau, thù hận nhau
quyết liệt theo kiểu những ''đồng chí cộng sản thù địch'', để loại bỏ
nhau, ''gạt '' nhau không thương tiếc, đến độ vu cáo nhau là cộng tác
viên, nhân viên của cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA trong một báo cáo chính
thức, nhằm lật đổ và trừng phạt nhau.
Bài biên khảo này là lời kêu gọi khẩn thiết, chỉ ra phương hướng đấu
tranh của các chiến sĩ dân chủ cùng toàn dân ta, những thời cơ thuận
lợi mới trong thời mở cửa, đổi mới và hội nhập, nhằm giành lại mọi
quyền tự do chân chính vốn có của nhân dân ta, giành lại nền độc lập
thật sự và chủ quyền trên lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc Việt Nam ta.
Trong bài nghiên cứu có nói đến nhiều cá nhân, nhân vật nhưng tác giả
không có một định kiến hay hiềm khích cá nhân nào với bất cứ ai, chỉ
nung nấu một niềm đau chung của dân tộc và nhân dân, trước một vụ án
được coi là siêu nghiêm trọng kéo dài mấy chục năm, gây vô vàn thảm
hoạ, hàng triệu người đã biết, vậy mà những kẻ gây ra vẫn không hề hấn
gì, còn ngạo nghễ '' khoanh lạĩ '', ỉm đi, vậy có một thách thức nào
láo xược hơn, khủng khiếp hơn, cay đắng làm cho toàn dân Việt Nam ta, -
với tất cả danh dự dân tộc, bất bình hơn?
Đã đến lúc mỗi người Việt Nam chất vấn lương tâm mình. Không thể dửng dưng và bỏ qua. Hãy tìm hiểu rõ và có thái độ.
Tác giả rất mong bài nghiên cứu này được phổ biến rộng rãi trong, ngoài
nước, được các vị thức giả trao đổi bổ sung, các giáo sư sinh viên đặc
biệt là ở ngành sử học, luât học, quan hệ quốc tế... cùng các nhà báo
bình luận và nhận xét.
Xin đa ta và biết ơn.
Bùi Tín
Paris, tháng 2 - tháng 4-2008
[8] Xem thư đề ngày 3-1-2004 của đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Ban chấp
hành trung ương, Ban kiểm tra trung ương, góp ý kiến về xây dựng đảng.
[9] Tài liệu Về Tổng Cục II , '' những tin tức đáng lưu ý về Tổng cục II- Bộ quốc phòng ''
[10] Thư của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân.
[11] Thư lên án việc xuât bản sách Đại tướng Lê Đức Anh do Đỗ Mười viết Lời giới thiệu.